Kinh TIỂU KHÔNG
(Cūlasunnata Sutta)
(số121, Trung Bộ 3)
1. Như vầy tôi
nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi (Xá-vệ), tại
Pubbarama (Ðông Viên), lâu đài của Migaramatu (Lộc Mẫu).
2. Rồi Tôn giả Ānanda, vào buổi chiều, từ Thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi
đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên, Tôn giả
Ānanda bạch Thế Tôn:
-- Một thời,
bạch Thế Tôn, Thế Tôn trú giữa các Sakya (Thích-ca). Nagaraka là tên một thị trấn của các Sakya. Tại đấy, bạch Thế Tôn, con được nghe trước mặt
Thế Tôn, con được ghi nhớ trước mặt Thế Tôn như sau: "Này Ānanda, Ta
nhờ an trú KHÔNG, nên nay an trú rất nhiều". Phải chăng, bạch Thế
Tôn, điều con đã nghe là nghe đúng, ghi nhớ đúng, tác ý đúng, thọ trì đúng?
3. -- Thật vậy, này Ānanda, điều Ông đã nghe là
nghe đúng, ghi nhớ đúng, tác ý đúng, thọ trì đúng. Thuở xưa và nay, này Ānanda,
Ta nhờ an trú KHÔNG, nên nay an trú rất nhiều.
4. Ví
như lâu đài Lộc Mẫu này không có voi, bò, ngựa, ngựa cái, không có vàng và bạc,
không có đàn bà, đàn ông tụ hội, và chỉ có một cái không phải không, tức là sự
nhất trí (ekattam) do duyên chúng Tỷ-kheo;
cũng vậy, này Ānanda, Tỷ-kheo không tác
ý thôn tưởng, không tác ý nhân tưởng, chỉ tác ý sự nhất
trí, do duyên lâm tưởng. Tâm của
vị ấy được thích thú hân hoan, an trú, hướng đến lâm tưởng.
Vị ấy tuệ tri
như sau: "Các ưu phiền do duyên thôn tưởng không có mặt ở
đây; các ưu phiền do duyên nhân tưởng không có mặt ở đây. Và
chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên lâm tưởng".
Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có thôn tưởng". Vị
ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có nhân
tưởng, và chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí (ekattam)
do duyên lâm tưởng”.
Và cái gì không
có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây,
vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có". Như vậy, này Ānanda, cái này
đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh
tịnh, Không Tánh.
5. Lại nữa, này
Ānanda, Tỷ-kheo không tác ý
nhân tưởng, không tác ý lâm tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí do duyên địa tưởng. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng
đến địa tưởng.
Ví như, này
Ānanda, tấm da con bò
đực được căng thẳng trên một trăm cọc gỗ, đặc tánh tấm da được đoạn trừ (vigatavasika); cũng vậy, này Ānanda,
Tỷ-kheo, không tác ý đối với tất cả vật gì trên đất này: đất khô và vùng lầy, sông và vùng lầy, các cây có
thân và có gai, núi và đất bằng, vị ấy tác ý sự
nhất trí do duyên địa tưởng. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến địa tưởng.
Vị ấy tuệ tri
như sau: "Các ưu phiền do duyên nhân tưởng không có mặt ở
đây; các ưu phiền do duyên lâm tưởng không có mặt ở đây. Và
chỉ có một ưu phiền này, sự nhất trí do duyên địa tưởng". Vị
ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có nhơn tưởng". Vị ấy
tuệ tri: "Loại tưởng này không có lâm tưởng, và chỉ có một cái
này không phải không, tức là sự nhất trí do duyên địa tưởng".
Và cái gì không
có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị
ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có". Này Ānanda, cái này đối với vị
ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh
tịnh, Không Tánh.
6. Lại nữa, này
Ānanda, Tỷ-kheo không tác ý
lâm tưởng, không tác ý địa tưởng, tác ý sự nhất trí do duyên Không Vô Biên Xứ. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Không Vô Biên
Xứ.
Vị ấy tuệ tri
như sau: "Các ưu phiền, do duyên lâm tưởng không có mặt ở
đây; các ưu phiền do duyên địa tưởng không có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền
này, tức là sự nhất trí do duyên Không Vô Biên Xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri:
"Loại tưởng này không có lâm tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại
tưởng này không có địa tưởng, và chỉ có một cái này không phải
không, tức là sự nhất trí do duyên Không Vô Biên Xứ tưởng".
Và cái gì không
có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị
ấy biết: "Cái kia có, cái này có". Này Ānanda, cái này đối với vị ấy
là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, Không
Tánh.
7. Lại nữa, này Ānanda, Tỷ-kheo không tác ý địa tưởng, không tác ý Không Vô Biên Xứ
tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí do duyên Thức Vô Biên Xứ. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng
đến Thức Vô Biên Xứ.
Vị ấy tuệ tri
như sau: "Các ưu phiền do duyên địa tưởng không có mặt ở
đây; các ưu phiền do duyên Không Vô Biên Xứ tưởng không có mặt
ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên Thức Vô Biên Xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có địa tưởng". Vị ấy
tuệ tri: "Loại tưởng này không có Không Vô Biên Xứ tưởng, và
chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí do duyên Thức
Vô Biên Xứ tưởng".
Và cái gì không
có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị
ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có". Này Ānanda, cái này đối với vị
ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh,
Không Tánh.
8. Lại nữa, này Ānanda, Tỷ-kheo không tác ý Không Vô Biên Xứ tưởng, không tác ý
Thức Vô Biên Xứ tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí do duyên Vô Sở Hữu Xứ
tưởng. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú,
hướng đến Vô Sở Hữu Xứ.
Vị ấy tuệ tri
như sau: "Các ưu phiền do duyên Không Vô Biên Xứ tưởng không
có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên Thức Vô Biên Xứ tưởng không
có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên Vô Sở Hữu Xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Không Vô Biên Xứ tưởng".
Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Thức Vô Biên Xứ tưởng,
và chỉ có một cái này không phải không, tức là sự nhất trí do duyên Vô
Sở Hữu Xứ tưởng".
Và cái gì không
có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây,
vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có". Này Ānanda, cái này đối với
vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh,
Không Tánh.
9. Lại nữa, này Ānanda, Tỷ-kheo không tác ý Thức Vô Biên Xứ tưởng, không tác ý Vô
Sở Hữu Xứ tưởng, chỉ tác ý sự nhất trí do duyên Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
tưởng. Tâm vị ấy
được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.
Vị ấy biết như
sau: "Các ưu phiền do duyên Thức Vô Biên Xứ tưởng không
có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên Vô Sở Hữu Xứ tưởng không
có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sự nhất trí do duyên Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ tưởng. Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không
có Thức Vô Biên Xứ tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này
không có Vô Sở Hữu Xứ tưởng, và chỉ có một cái này không phải
không, tức là sự nhất trí do duyên Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ tưởng”.
Và cái gì không
có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây,
vị ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có". Này Ānanda, cái này đối với
vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh,
Không Tánh.
10. Lại nữa, này Ānanda, Tỷ-kheo không tác ý Vô Sở Hữu Xứ tưởng, không có tác ý Phi
Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ tưởng, tác ý sự nhất trí do duyên Vô Tướng Tâm
Định. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú,
hướng đến Vô Tướng Tâm Định.
Vị ấy tuệ tri
như sau: "Các ưu phiền do duyên Vô Sở Hữu Xứ tưởng không
có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ tưởng không
có mặt ở đây. Và chỉ có một ưu phiền này, tức là sáu
nhập duyên mạng, duyên với thân này". Vị
ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Vô Sở Hữu Xứ
tưởng". Vị ấy tuệ tri: "Loại tưởng này không có Phi Tưởng
Phi Phi Tưởng Xứ tưởng. Và chỉ có một cái này không phải không,
tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này".
Và cái gì không
có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị
ấy tuệ tri: "Cái kia có, cái này có". Này Ānanda, cái này đối với vị
ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, Không
Tánh.
11. Lại nữa,
này Ānanda, vị Tỷ-kheo không tác ý Vô
Sở Hữu Xứ tưởng, không tác ý Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ tưởng, tác ý sự nhứt
trí do duyên Vô Tướng Tâm Định. Tâm vị ấy được thích thú, hân hoan, an trú, hướng đến Vô Tướng Tâm Định.
Vị ấy tuệ tri
như sau: "Vô Tướng Tâm Định này thuộc hữu vi, do tâm tư
tạo nên. Phàm cái gì thuộc hữu vi, do tâm tư tạo nên, cái ấy là vô thường, chịu
sự đoạn diệt", vị ấy tuệ tri như vậy. Do
vị ấy tuệ tri như vậy, thấy như vậy, tâm được giải thoát khỏi dục lậu, tâm được giải
thoát khỏi hữu lậu, tâm được giải thoát khỏi vô minh lậu. Trong sự giải thoát, là sự hiểu biết (nana) rằng đã được giải thoát.
Vị ấy tuệ tri: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã
làm, không còn phải trở lại trạng thái này nữa".
Vị ấy tuệ tri:
"Các ưu phiền do duyên dục lậu không
có mặt ở đây; các ưu phiền do duyên hữu lậu không có mặt có ở
đây; các ưu phiền do duyên vô minh lậu không có mặt ở đây. Và
chỉ có một ưu phiền này, tức là sáu nhập duyên mạng, duyên với thân này".
Vị ấy tuệ tri:
"Loại tưởng này không có dục lậu". Vị ấy tuệ tri:
"Loại tưởng này không có hữu lậu". Vị ấy tuệ tri:
"Loại tưởng này không có vô minh lậu. Và chỉ có một cái này không phải không, tức là sáu nhập duyên
mạng, duyên với thân này".
Và cái gì không
có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây vị
ấy biết: "Cái kia có, cái này có". Này Ānanda, cái này đối với vị ấy
là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, Không
Tánh.
12. Này Ānanda, phàm có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong quá khứ sau khi chứng đạt, đã an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không Tánh (Sunnatam), tất cả các vị ấy sau khi chứng đạt đều chỉ an trú cứu cánh vô thượng
thanh tịnh Không Tánh này.
Này Ānanda,
phàm có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong tương lai, sau khi chứng
đạt sẽ an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không Tánh, tất cả các vị ấy sau khi
chứng đạt đều sẽ an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không Tánh này.
Này Ānanda,
phàm có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong hiện tại, sau khi chứng
đạt và an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không Tánh, tất cả các vị ấy sau khi
chứng đạt đều an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không Tánh này.
Do vậy, này
Ānanda, sau khi chứng đạt Ta sẽ an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không Tánh. Như vậy, này Ānanda, các Ông cần phải học tập.
13. Thế Tôn
thuyết giảng như vậy. Tôn giả Ānanda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Sa-môn Thích Minh
Châu dịch Việt
<<<<>>>>
Kinh TIỂU KHÔNG
<Số 190, Trung A Hàm>
Hán dịch: Phật Đà Da Xá và Trúc
Phật Niệm
Việt dịch và hiệu chú: Thích Tuệ Sỹ
Sài gòn 2002
Việt dịch và hiệu chú: Thích Tuệ Sỹ
Sài gòn 2002
Tôi nghe như
vầy:
Một thời Đức
Phật du hóa tại nước Xá-vệ, tại Đông viên, Lộc tử mẫu giảng
đường[2].
Bấy giờ Tôn
giả A-nan vào lúc xế, từ thiền tọa đứng dậy, đi đến chỗ Phật,
cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, lui đứng sang một bên mà bạch
rằng:
“Một thời Thế
Tôn du hành giữa những người họ Thích, trong thành tên là Thích
đô ấp[3]. Con lúc ấy được nghe Thế Tôn nói nghĩa như
vầy, ‘Này A-nan, Ta phần nhiều hành nơi không tánh’[4]. Thế Tôn! Phải là con
biết rõ, nhận rõ và nhớ kỹ không?”
Khi ấy Thế Tôn đáp
rằng:
“Này A-nan, lời
nói của Ta đó, ông thật sự biết rõ, nhận rõ và nhớ kỹ. Vì sao? Vì Ta tự
bao giờ cho đến hôm nay phần nhiều hành nơi không tánh.
“Này A-nan,
như giảng đường Lộc tử mẫu này trống không, không có voi, ngựa,
bò, dê, tài vật, lúa thóc, nô tỳ; nhưng có cái không trống không. Đó là chỉ có
chúng Tỳ-kheo. Cho nên, này A-nan, nếu trong đó không có gì cả thì chính do đó
mà Ta thấy là trống không. Nếu trong này còn có cái khác thì Ta thấy là chân
thật có. Này A-nan, đó là hành trong sự chân thật, không tánh,
sự không điên đảo[5].
“Này A-nan, Tỳ-kheo
nào nếu muốn hành nhiều trong không tánh, Tỳ-kheo ấy đừng tác đến ý
tưởng về xóm làng, đừng tác ýđến ý tưởng về người, mà
hằng tác ý đến ý tưởng về duy nhấttánh là ý tưởng về
khu rừng[6]. Vị ấy nhận biết như vầy, ‘Trống không ý tưởng về
xóm làng, trống không ý tưởng về người, nhưng có một cái không trống
không, đó là duy nhất tánh do ý tưởng về khu rừng. Nếu có
sự phiền nhọc[7] do ý tưởng về xóm làng, thì ở đây ta không có sự ấy.
Nếu có sự phiền nhọc do ý tưởng về người, thì ở đây ta không có sự
ấy. Ở đây chỉ có sự phiền nhọc là do duy nhất tánh ý tưởng về
khu rừng’. Nếu trong đó không có gì cả thì, thì chính do đó mà vị ấy thấy đó là
trống không. Nếu trong này còn có cái khác, thì vị ấy thấy là chân thậtcó.
Này A-nan, đó là hành trong sự chân thật, không tánh, sự không điên
đảo.
“Lại nữa, này
A-nan, Tỳ-kheo nếu muốn hành nhiều trong không tánh, Tỳ-kheo ấy đừng tác
ý đến ý tưởng về người, đừng tác ýđến ý tưởng khu
rừng mà hằng tác ý đến duy nhất tánh là ý tưởng về
đất. Tỳ-kheo ấy nếu thấy đất này có cao có thấp, có ổ rắn, có bụi gai, có cát,
có đá, núi chởm, sông sâu thì chớ có tác ýđến. Nếu thấy đất này bằng phẳng
như lòng bàn tay, chỗ trông ra được rõ ràng, thì hãy thường tác ý đến.
“Này A-nan, ví
như da bò, lấy một trăm cây đinh mà căng ra; sau khi căng rất thẳng, nó
không nhăn, không rút lại. Nếu thấy chỗ đất này có cao có thấp, có ổ rắn,
có bụi gai, có cát, có đá, núi chởm, sông sâu thì đừng tác ý đến. Nếu
thấy chỗ đất này bằng phẳng như lòng bàn tay, chỗ trông ra được rõ ràng,
thì hãy thường tác ý. Vị ấy biết như vậy, biết rằng, ‘Trống không ý
tưởng về người, trống không ý tưởng về khu rừng, nhưng có một cái
không trống không, đó là duy nhất ý tưởng về đất. Nếu có sự
phiền nhọc do ý tưởng về người, thì ở đây ta không có sự ấy. Nếu có
sự phiền nhọc do ý tưởng về khu rừng, thì ở đây ta không có sự ấy. Ở
đây chỉ có sự phiền nhọc do duy nhất tánh là ý tưởng về
đất’. Nếu trong đó không có gì cả, thì chính do đó mà vị ấy thấy là trống
không. Nếu trong này còn có cái khác thì vị ấy thấy là chân thật có.
Này A-nan, đó là hành trong sự chân thật, không tánh, sự không điên
đảo.
“Lại nữa, này
A-nan, Tỳ-kheo nếu muốn hành nhiều trong không tánh, Tỳ-kheo ấy đừng tác
ý đến ý tưởng về khu rừng, đừng tác ý đến ý tưởng về
đất, mà hằng tác ý đến duy nhất tánh là ý tưởng thuần
nhất về vô lượng không xứ[8]. Vị ấy nhận biết như vầy,
‘Trống không ý tưởng về khu rừng, trống không ý tưởng về
đất, nhưng có cái không trống không, đó là duy nhất ý tưởng về vô
lượng không xứ. Nếu có sự phiền nhọc do ý tưởng về khu rừng, thì
ở đây ta không có sự đó. Nếu có sự phiền nhọc do ý tưởngvề đất, thì ta
không có sự đó. Ở đây chỉ có sự phiền nhọc do duy nhất tánh là ý
tưởng về vô lượngkhông xứ’. Nếu trong đó không có gì cả, thì chính do
đó mà vị ấy thấy là trống không. Nếu trong này còn có cái khác, thì vị ấy thấy
là chân thật có. Này A-nan, đó là hành trong sự chân thật, tánh
không, không điên đảo.
“Lại nữa, này
A-nan, Tỳ-kheo muốn hành nhiều trong không tánh, Tỳ-kheo ấy đừng tác
ý đến ý tưởng về khu rừng, đừng tác ý đến ý tưởng về
đất, đừng tác ý về ý tưởng vô lượng không xứ, hãy
hằng tác ý đến duy nhất tánh là ý tưởng về vô
lượng thức xứ[9]. Vị ấy nhận biết như vầy, ‘Trống không ý
tưởng về khu rừng, trống không ý tưởng về đất, trống không ý
tưởng về vô lượng không xứ, nhưng có một cái không trống không,
đó là duy nhất ý tưởng về vô lượng thức xứ. Nếu có sự
phiền nhọc do ý tưởng về khu rừng, thì ở đây ta không có sự ấy. Nếu
có sự phiền nhọc do ý tưởng về đất, thì ở đây ta không có sự ấy. Nếu
có sự phiền nhọc do ý tưởng về vô lượng không xứ, thì ở đây
ta không có sự ấy. Ở đây chỉ có sự phiền nhọc do duy nhất tánh
là ý tưởng về vô lượng thức xứ.’ Nếu trong đó không có gì
cả, thì chính vì vậy mà vị ấy thấy là trống không. Nếu trong này còn
có một cái khác, thì vị ấy thấy là chân thật có. Này A-nan, đó là
hành trong sự chân thật, tánh không, không điên đảo.
“Lại nữa, này
A-nan, Tỳ-kheo nếu muốn hành nhiều trong không tánh, Tỳ-kheo ấy đừng tác
ý đến ý tưởng về vô lượng không xứ, đừng tác ý đến ý
tưởng về vô lượng thức xứ, mà hãy hằng tác ý đến duy
nhất tánh là ý tưởng về vô sở hữu xứ[10]. Vị ấy niệm
biết như vầy, ‘Trống không vô lượng không xứ, trống không
vô lượng thức xứ, nhưng có một cái không trống không. Đó là duy nhất ý
tưởng về vô sở hữu xứ. Nếu có sự phiền nhọc do ý tưởng về vô
lượng không xứ, thì ở đây ta không có sự ấy. Nếu có sự phiền nhọc do ý
tưởng về vô lượng thức xứ, thì ở đây ta không có sự ấy. Ở đây
chỉ có sự phiền nhọc do duy nhất tánh là ý tưởng về vô
sở hữu xứ’. Nếu trong đó không có gì cả, thì chính vì vậy mà vị
ấy thấy là trống không. Nếu trong đó còn có cái khác, thì vị ấy thấy là chân
thật có. Này A-nan, đó là hành trong sự chân thật, tánh không,
không điên đảo.
“Lại nữa, này
A-nan, Tỳ-kheo nếu muốn hành nhiều trong không tánh, Tỳ-kheo ấy đừng tác
ý đến ý tưởng về vô lượng thức xứ, đừng tác ý đến ý
tưởng về vô sở hữu xứ, mà hãy hằng tác ý đến duy nhấttánh
là ý tưởng về vô tưởng tâm định[11]. Vị ấy nhận biết như
vầy, ‘Trống không ý tưởng về vô lượngthức xứ, trống không ý
tưởng về vô sở hữu xứ, nhưng có cái không trống không, đó là duy
nhất tánh do vô tưởng tâm định. Nếu có sự phiền nhọc do ý
tưởng về vô lượng thức xứ, thì ở đây ta không có sự ấy. Nếu có
sự phiền nhọc do ý tưởng về vô sở hữu xứ, thì ở đây ta cũng
không có sự ấy. Ở đây chỉ có sự phiền nhọc do duy nhất là về tưởng
tâm định’. Nếu trong đó không có gì cả, thì chính vì vậy mà vị ấy
thấy là trống không. Nếu trong này còn có cái khác, thì vị ấy thấy là chân
thật có. Này A-nan, đó là hành trong sự chân thật, tánh không,
không điên đảo.
“Vị ấy lại suy
nghĩ như vầy, ‘Vô tưởng tâm định mà ta đã có đây vốn là sở hành,
vốn là sở tư[12]. Nếu nó vốn là sở hành, vốn là sở tư thì ta không ái lạc nó[13],
không mong cầu nó, không an trụ trên nó’.
“Vị ấy biết như
vậy, thấy như vậy, tâm giải thoát dục lậu, tâm giải thoát hữu
lậu và vô minh lậu. Giải thoát rồi, thì biết là mình
đã giải thoát, biết như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm
hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’.
Vị ấy biết như vầy, ‘Trống không là dục lậu, trống không là hữu
lậu, trống không là vô minh lậu; nhưng có cái không trống không, đó là chỉ
có thân này của ta với sáu xứ cho mạng tồn tại. Nếu có sự phiền
nhọc do dục lậu, thì ta không có sự ấy. Nếu có sự phiền nhọc do hữu
lậu và vô minh lậu, ta cũng không có sự ấy. Ở đây chỉ có sự phiền
nhọc do nơi thân này của ta và sáu xứ cho mạng tồn tại[14]’.
Nếu trong đó không có gì cả thì chính vì vậy mà vị ấy thấy là trống
không. Nếu trong này còn có cái khác thì vị ấy thấy là chân thật có.
Này A-nan, đó là hành trong sự chân thật, tánh không, không điên
đảo. Đó là lậu tận, vô lậu, vô vi, tâm giải thoát.
“Này A-nan,
trong quá khứ, nếu có các Đức Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng
Chánh Giác, các vị ấy tất cả đều hành trong sự chân thật, tánh không,
không điên đảo này; đó là lậu tận, vô lậu, vô vi, tâm
giải thoát.
“Này A-nan,
trong vị lai, nếu có các Đức Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng
Chánh Giác, các vị ấy tất cả đều hành trong sự chân thật, tánh không,
không điên đảo này; đó là lậu tận, vô lậu, vô vi, tâm
giải thoát.
“Này A-nan,
trong hiện tại, Ta là Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh
Giác, Ta cũng hành trong sự chân thật, tánh không, không điên
đảo này; đó là lậu tận, vô lậu, vô vi, tâm giải thoát.
“Cho nên, này
A-nan, hãy học như vậy.”
Phật thuyết như vậy, Tôn
giả A-nan và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng
hành.
<Ghi chú: phần in đậm trong kinh là của Admin>
-------------
[1] Tương đương Pāli, M.124. Cūḷa-suññatā-suttaṃ.
[2]Xem kinh 189 trên.
[3]Pāli: Sakkesu (.....) nagarakam nāma sakyānaṃ nigamo, giữa những
người họ Thích, một thị trấn của họ Thích ca, tên là Nagaraka.
[4]Hành không 行空. Pāli:
suññatāvihāra, không trụ, sự an trụ nơi tánh không, sống trong trạng tháikhông
tánh.
[5]Hành chân thật không bất điên đảo. Pāli: Yathābhuccā avipallatthā
parisuddhā sunnatāvakkam. Thâm nhập không tánh, chân thật, thanh tịnh, không
điên đảo. Bốn từ này ở đây được coi là đồng nghĩa.
[6]Hán: niệm nhất vô sự tưởng 念一無事想. Pāli: araññasaññaṃ paṭicca manasi
karoti ekattaṃ, duyên vào ý tưởng về khu rừng mà tác ý cái một. Duyên vào ý
tưởng rừng mà tập trung trên một đối tượng duy nhất, nhất tánh.
[7]Bì bao 疲勞, Pāli: daratha,
bất an, buồn phiền.
[8]Vô lượng không xứ tưởng 無量空處想. Pāli: ākāsānañcāyatana-saññā.
[9]Vô lượng thức xứ tưởng 無量識處想. Pāli: viññāṇañcanāyatana-saññā.
[10]Vô sở hữu xứ tưởng 無所處想. Pāli: ākiñcaññāyatana-saññā.
[11]Vô tưởng tâm định 無想心定. Pāli: animitta-cetosamādhi (vô tướng tâm định). Bản Hán bỏ qua Phi hữu
tưởng phi vô tưởng phi vô tưởng xứ (nevasaññāsaññāyātana-saññā) được đề cập
trong bản Pāli.
[12]Bổn sở hành, bổn sở tư 本所本所思. Pāli: ayampi kho animoitto
cetosamādhi abhsaṅkhato abhisañcetayito, vô tướng tâm định này là thắng hữu vi,
được tư duy. Thắng hữu vi, thuộc hữu vi, vì những thù thắng, siêu việt hơn.
Trong bản Hán, đọc là abhisaṃkhāra (bổn sở hành hay thắng hành) thay vì là
abhisaṃkhata. Bổn sở tư (abhisañcetayita), ở đây hiểu là cái được tạo ra do tư
niệm, tư sở tác.
[13]So Pāli: abhismkhatṃm (....) aniccṃm: thuộc về hữu vi, là vô thường.
[14]Pāli: kāyaṃ paṭicca-saḷāyatanikaṃ jīvitapaccayā, duyên nơi thân với
sáu xứ là điều kiện cho mạng tồn tại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét