Thứ Năm, 19 tháng 4, 2018

A MI TÒ PHÒ CHỞ ĐÁ


Tịnh Độ tử: _ Này Chánh Nhân, theo 48 đại nguyện của ngài A Mi Tò Phò, dù một kẻ tạo tội đến đâu cũng được cứu rỗi dễ dàng. Giống như tảng đá to, dù nặng cỡ nào cũng được chiếc thuyền lớn chở qua sông.
Chánh Nhân: _ Tảng đá lớn dù có nổi hay chìm cũng chẳng chết ai. Chiếc thuyền to nhưng không có trí tuệ là điều dễ hiểu. Nhưng ở đây một kẻ đại ác với bàn tay đẫm máu, tạo biết bao tai hoạ, sau khi gây tội ác hắn chỉ cần tín-nguyện-hành, nhẫn đến mười niệm, cũng được Tây du Cực lạc là chuyện hoàn toàn khác. Tiếp độ kiểu đó, điều ác được tiêu trừ hay gia tăng? Còn bao nhiêu nạn nhân vô tội của kẻ sát nhân, nếu họ không tín-nguyện-hành thì ai cứu giúp họ? Nhân quả ở đâu? Công bằng chỗ nào? Chí nhân, chí thánh, chí thiện như thế ư?
Tịnh Độ tử: _ Ngài Angulimala cũng là một sát tử, nhưng cũng đắc A La Hán và được giải thoát đấy thôi!
Chánh Nhân: _ Ông nên nhớ, trước và sau đó, ngài Angulimala vẫn phải trả nợ sòng phẳng cho luật nhân quả. Như chánh kinh mô tả, Ngài đã phải nhẫn nhục chịu đựng biết bao nhiêu trận đòn thù, trả nợ biết bao nhiêu máu, chấp nhận biết bao nhiêu đau khổ. Chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã khuyên nhủ và sách tấn ông phải kham nhẫn, vì nếu không như thế, ông ta sẽ bị nấu sôi ngàn năm trong địa ngục. Mọi người phải biết sợ quả báo thì thế giới mới trở nên an bình được chứ. Công bằng phải như thế. Nhân quả là ở đó. Chí nhân, chí thánh, chí thiện là như vậy.
Tịnh Độ tử: _ Ừ nhỉ, vậy mà tôi không nghĩ ra. Thôi, từ nay tôi bái bai mấy ông luận sư Bà-la-môn và cả ông A Di Đà của họ là vừa.
Chánh Nhân: _ Lành thay! Ông nên nhớ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã dạy rõ “kẻ ôm tà kiến chỉ có hai sanh thú: địa ngục hoặc súc sanh”. Mấy ông cứ nhắm mắt tin theo mấy ông luận sư Bà-la-môn gián điệp và các kinh văn ngụy tạo của họ, phải đọa cõi dữ là điều chắc chắn.
Tịnh Độ tử: _ Mô Phật! Giờ đây tôi phải làm sao để đoái công chuộc tội?
Chánh Nhân: _ Phải tích cực ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng thiện.
Tịnh Độ tử: _ Xin ông nói rõ hơn!
Chánh Nhân: _ Tích cực ngăn ác là nỗ lực ngăn không cho tà kinh, tà kiến còn phát triển. Tích cực diệt ác là nỗ lực đoạn trừ tà kiến, đốt bỏ mấy cuốn tà kinh. Tích cực sanh thiện là nỗ lực tìm hiểu đúng Chánh Kinh, Chánh Pháp và giúp người khác cũng được như vậy. Tích cực tăng trưởng thiện là nỗ lực thọ trì nhiều hơn và truyền bá rộng hơn Chánh Kinh, Chánh Pháp.
Tịnh Độ tử: _ Xin cảm ơn Ông chỉ giáo. Tôi sẽ tích cực thực hành những điều ông vừa nói để cứu mình và cứu mọi người.
-------------------
"  Nguyên văn nguyện thứ 18 của A-di-đà
Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh, chí tâm tín mộ, muốn sanh về cõi nước tôi, nhẫn đến 10 niệm, nếu không được sanh, thời tôi không ở ngôi Chánh giác; trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch, cùng hủy báng Chánh pháp.
!  Nguyện thứ 18 của Diêm Vương A Ya Ma  
Lúc tôi thành Diêm Chúa, thập phương sát sanh, chí tâm diệt chủng, kể cả kẻ tạo tội ngũ nghịch, cùng hủy báng Chánh pháp; nhưng không muốn sanh về cõi âm phủ, nhẫn đến 10 niệm tên tôi thôi, nếu bị sanh, thời tôi không ở ngôi U Minh Giáo Chủ.
"  Nguyên văn nguyện thứ 1của A-di-đà
Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh phát Bồ-đề tâm, tu các công đức, nguyện sanh về cõi nước tôi, đến lúc lâm chung, nếu tôi chẳng cùng đại chúng hiện thân trước người đó, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
!  Nguyện thứ 1của Diêm Vương A Ya Ma  
Lúc tôi thành Diêm Chúa, thập phương chúng sanh phát tâm diệt chủngkhông tu các công đức, không muốn sanh về cõi nước tôi, đến lúc lâm chung, nếu tôi có cùng đại chúng hiện thân trước người đó hay khôngchẳng ai chứng minh được, cho nên tôi cứ nguyện bừa cho những kẻ ngu tin theo”
"  Nguyện thứ 20 của A-di-đà:
Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi, chuyên nhớ cõi nước tôi, và tu các công đức, chí tâm hồi hướng, muốn sanh về cõi nước tôi, nếu chẳng được toại nguyện, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
!  Nguyện thứ 20 của Diêm Vương A Ya Ma:
Lúc tôi thành Diêm Chúa, thập phương sát sanh nghe danh hiệu tôi, không cần nhớ cõi nước tôi, và chẳng tu các công đức, chí tâm làm ác, nhưng không muốn sanh về cõi nước tôi, nếu chẳng được toại nguyện, thời tôi không ở ngôi U Minh Giáo Chủ.
] Trích chánh Kinh Angulimala, số 86, Trung Bộ 2:
“…Rồi Tôn giả Angulimala buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Savatthi để khất thực. Lúc bấy giờ, một cục đất do một người ném, rơi trên thân Tôn giả Angulimala, rồi một cây gậy do một người khác quăng, rơi trên thân Tôn giả Angulimala, rồi một hòn sỏi do một người khác quăng, rơi trên thân Tôn giả Angulimala.
Rồi Tôn giả Angulimala bị lỗ đầu, chảy máu, bình bát bị bể, ngoại y bị rách, đi đến Thế Tôn. Thế Tôn thấy Tôn giả Angulimala từ xa đi đến, thấy vậy, liền nói với Tôn giả Angulimala: "Hãy kham nhẫn, này Bà-la-môn! Hãy kham nhẫn, này Bà-la-môn! Ông đang gặt hái ngay trong hiện tại quả báo của nghiệp mà đáng lẽ Ông phải chịu nấu sôi ở địa ngục nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm".
{ Thừa tự Pháp trích lục:
Đạo Phật không chủ trương lấy ác trả đũa cho cái ác, vì như vậy chẳng còn gì là thiện. Theo quy luật nhân quả nhân bản đích thực, tự bản thân một nghiệp ác phải chịu quả báo của nghiệp ác, một nghiệp thiện hưởng quả báo của nghiệp thiện dưới nhiều hình thức của cảm thọ, của luân hồi, của đạo lý công bằng chân chánh.
Chánh Đạo của Thánh Tuệ Từ Bi không có hại cho mình, không gây hại cho người; có lợi cho mình, có lợi cho người, cho cả hai, cho toàn thế giới. Ngược lại tà pháp tà đạo chỉ phiến diện một chiều, phi lý, bất công, lợi bất cấp hại. Cõi Tây phương Tịnh độ A-di-đà là ví dụ điển hình.
Theo Bhuddhist Research

TĂNG NI COI THƯỜNG GIỚI HẠNH LÀ ĐANG TỰ GIẾT MÌNH VÀ PHÁ HOẠI ĐẠO PHÁP

Có một dạo, báo chí “In-tờ-nét” tiếng Việt ở nước ngoài rỉ rả đăng tin về một nhà sư vốn thuộc truyền thống chính tông Trư Bát Giới, chánh pháp danh Thích… Kiều Nữ. Đêm đến, vị tu sĩ này thường cải trang thành phó thường dân, nón che trùm đầu, đi đến các khu vực của chị em Thuý Kiều để thực hành pháp môn gì đó không ai biết.
Đi đêm riết cũng có ngày gặp... phú-lít. Một lần nọ, sau khi ngã giá xong với một cô em xinh như hoa, vị Trư tăng sắp sửa móc bửu bối ra hành đạo thì nàng Thuý Kiều bỗng hoá thành cô nhân viên cảnh sát, giơ thẻ cớm và lập biên bản phạt cảnh cáo nhà tu hành giả danh.
Đúng là cô cảnh sát nước ngoài kia chẳng biết tí ti gì về pháp cao siêu, vĩ đại, thượng thừa mà nhà sư Thích Kiều Nữ đang dốc lòng kế thừa nương dựa. Cô ta còn quá “vô minh” nên làm sao hiểu nổi, xưa kia khi cô ta còn chưa ra đời, đã có một vị sơn tăng đại phái, sau mấy chục năm ẩn tu trên núi, vừa mới ra thất vị này bèn vào ngay chốn thanh lâu.
Vị sơn tăng vừa uống rượu vừa cho một tiểu muội bán rượu ôm ngồi trên đùi. Ngài làm như thế vì muốn để cho bàn dân thiên hạ thấy công phu miễn dịch được dục của mình. Đã thế vị sơn tăng còn tự ca ngợi công hạnh hành Bồ Tát đạo của mình vì đã dám vào chốn bùn nhơ để hoá độ chúng sanh.
Chỉ có điều, chẳng ai biết rõ vị sơn tăng có hoá độ được cho cô gái bán hoa hay không, hay cô gái lại hoá độ cho thầy. Lại nữa, chuyện rượu ôm vào rồi lời ra nói không ái dục có gì là khó, đâu phải ‘thầy tu’ mới làm được. Một kẻ phóng túng ưa nói láo cũng làm được. Thế nhưng rõ ràng câu chuyện trên đã là nguồn cổ vũ mạnh mẽ cho nhiều kẻ giả danh tu hành, tiếp tục làm bậy nhưng vẫn cứ luôn miệng ngụy biện cho lối tu hành tà hạnh của mình.
Đáng tiếc thay, câu chuyện của vị sơn tăng vẫn còn được rao giảng như một minh chứng cho tinh thần phá chấp độ tha cao diệu (?) Chính người viết bài này đã được nghe “huyền thoại" về vị sơn tăng “tửu ôm” nói trên từ một vị Thượng Tọa trong một buổi thuyết pháp có đến hàng trăm Phật tử.
Đọc xong bài báo điện tử ở nước ngoài, Phạm Thiên cũng đành phải chép miệng tự nhủ: chừng nào người ta còn ca tụng hình ảnh của vị sơn tăng, chừng đó hẳn còn nhiều các đệ tử sa-tăng đã, đang và sẽ thực hành đạo… tặc như ngài “Thích Kiều Nữ”.
Cho nên mới có thơ rằng:
Cà-sa chưa hẳn là tu.
Ngụy ngôn, tà hạnh công phu ích gì.
Nêu gương xấu, có lợi chi.
Mau giữ giới hạnh, kẻo đi A-tỳ
Những ai còn muốn khua môi múa lưỡi để bênh vực cho vị “sơn tăng miễn dục”, hãy đọc kỹ và ghi nhớ những đoạn chánh kinh sau đây của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni:
“Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo bị mất tin tưởng và bị nghi ngờ là "ác Tỷ-kheo”, dầu cho vị ấy đã đạt được bất động. Thế nào là năm? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến chỗ dâm nữ, đi đến nhà đàn bà góa, đi đến nhà có con gái già, hay đi đến nhà các hoạn quan, hay đi đến chỗ các Tỷ-kheo-ni. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo bị mất tin tưởng và bị nghi ngờ là ác Tỷ-kheo, dầu cho vị ấy đã đạt được bất động  (Tăng Chi tập 2, chương 5, trang 515).  
{ Thừa tự Pháp trích lục
Cần nhắc lại, “dầu cho vị ấy đã đạt được bất động” chăng nữa, nhưng vi phạm các điều khoản có thể làm ảnh hưởng đến hạnh kiểm của cá nhân và uy tín của Tăng Đoàn, vị ấy vẫn bị mất tin tưởng và bị nghi ngờ là ác Tỳ-kheo.
] Còn đây là lời Phật dạy trong Tăng Chi chương 7, số 68, tr.458-69:
Ta tuyên bố cho các Thầy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rõ cho các Thầy, này các Tỷ-kheo, với một người ác giới, theo ác pháp, sở hành bất tịnh, đáng nghi ngờ những hành vi che đậy, không phải Sa-môn, nhưng tự nhận là Sa-môn, không sống Phạm hạnh, nhưng tự nhận sống Phạm hạnh, nội tâm hôi hám, ứ đầy tham dục, tánh tình bất tịnh.
Thật là tốt hơn cho người ấy ôm ấp, ngồi gần hay nằm gần nhóm lửa lớn ấy đang cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn. Vì cớ sao? Vì do nguyên nhân ấy, này các Tỷ-kheo, người ấy có thể đi đến chết, hay đi đến gần như chết, nhưng không vì nhân duyên ấy, sau khi thân hoại mạng chung, có thể sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Nhưng này các Tỷ-kheo, khi một người ác giới theo ác pháp... tánh tình bất tịnh, ôm ấp, ngồi gần, hay nằm gần tay chân mềm mại non trẻ của người con gái Sát-đế-lỵ, hay người con gái Bà-la-môn, hay người con gái gia chủ; như vậy, này các Tỷ-kheo, khiến cho vị ấy bất hạnh đau khổ lâu dài, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục
{ Thừa tự Pháp trích lục:
Một khi Đức Thế Tôn, Đức Chánh Biến Tri thấu suốt nhiều đời kiếp, đã “tuyên bố” như vậy, đã “nói rõ” như vậy thì sự thật chắc chắn phải như vậy, không sai chạy, không thể khác được. Ngài không hù dọa, không nói quá. Chính vì thấy rõ như vậy nên bản thân Ngài và các hoàng thân quốc thích, các đệ tử giàu có chẳng ai thèm quay lại với dục lạc nguy hiểm mặc dù các ngài có thừa điều kiện hưởng thụ. Mỗi Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni cần phải ghi nhớ kỹ lời này để tránh rơi vào đọa xứ địa ngục vì nghe theo ác tuệ phá hạnh.
_ Thêm lời dạy này nữa:  “Ở đây, này Bà-la-môn, có Sa-môn hay Bà-la-môn, tự xem mình sống Phạm hạnh một cách chơn chánh, tuy không có hành dâm với nữ nhân, nhưng hưởng thụ được nữ nhân thoa, bóp, tắm, xức dầu. Vị ấy thích thú, ước muốn, bị kích thích bởi nữ nhân. Này Bà-la-môn, đây gọi là Phạm hạnh bị bể vụn, bị khuyết phạm, bị nhiễm ô, bị điểm chấm.
Này Bà-la-môn, đây gọi là hành Phạm hạnh không thanh tịnh, bị liên hệ, bị hệ lụy với dâm dục, không giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng không thoát khỏi khổ.
Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có Sa-môn hay Bà-la-môn, tự xem mình sống Phạm hạnh một cách chơn chánh, tuy không có hành dâm với nữ nhân, không có hưởng thụ được nữ nhân thoa, bóp, tắm, xức dầu, nhưng cười giỡn, chơi đùa, vui chơi với nữ nhân...
tuy không cười giỡn, chơi đùa, vui chơi với nữ nhân, nhưng lấy mắt nhìn mắt, trừng mắt nhìn theo nữ nhân... tuy không lấy mắt nhìn mắt, trừng mắt nhìn theo nữ nhân, nhưng nghe tiếng của nữ nhân, tiếng cười, tiếng nói, tiếng hát, tiếng khóc ngang qua vách, ngang qua hàng rào...
tuy không nghe tiếng của nữ nhân, tiếng cười, tiếng nói, tiếng hát, tiếng khóc ngang qua vách, ngang qua hàng rào, nhưng nhớ đến tiếng cười, tiếng nói, tiếng đùa giỡn trước kia đã có với nữ nhân... tuy không nhớ đến tiếng cười, tiếng nói, tiếng đùa giỡn trước kia đã có với nữ nhân, nhưng xem gia chủ hay con gia chủ thọ hưởng, thưởng thức thích thú trong năm dục công đức...
tuy không xem gia chủ hay con gia chủ thọ hưởng, thưởng thức thích thú trong năm dục công đức, nhưng sống Phạm hạnh với tâm nguyện hướng đến một thân chư Thiên, nguyện rằng: "Với giới này hay với giới cấm này, hay với khổ hạnh này, hay với Phạm hạnh này, ta sẽ thành một Thiên nhân này hay một Thiên nhân khác".
Vị ấy thích thú, ước muốn, bị kích thích bởi nữ nhân. Này Bà-la-môn, đấy gọi là Phạm hạnh bị bể vụn, bị khuyết phạm, bị nhiễm ô, bị điểm chấm.
Này Bà-la-môn, đấy gọi là hành Phạm hạnh không thanh tịnh, bị liên hệ, bị hệ lụy với dâm dục, không giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng không giải thoát khỏi khổ”  (Bài kinh “Dâm Dục”, Tăng Chi 3, Chương 7, V. Phẩm Đại Tế Đàn, trang 349).
{ Thừa tự Pháp trích lục
Những lời dạy trên cần phải được mỗi Tỳ-kheo ghi nhớ kỹ, thọ trì cẩn thận, thực hành mọi lúc, mọi nơi mới giúp vị Tỳ-kheo tránh khỏi những cạm bẫy ái dục khiến phải trở lui đọa xứ luân hồi.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

KHÔNG TIỀN CÓ PHƯỚC?


Một thời bấy giờ, Hòa Thượng Thích Không Giàu đang trú tại am thất Vui Không Bạc, trong tịnh xá Ưa Không Vàng, thuộc xứ Không Đô La. Cư sĩ Hộ Tự vốn nghe danh ngài đã lâu, nay cơ duyên thuận tiện, cư sĩ không ngại đường xa tìm đến tận nơi vấn đạo. Sau khi đảnh lễ và vấn an vị cao tăng xong, cư sĩ Hộ Tự hỏi:
_ Thưa Hòa Thượng, cư sĩ chúng con cúng dường tiền cho tu sĩ có phước báu như thế nào ạ?
Hòa Thượng Thích Không Giàu mỉm cười:
_ Chỉ có quả báo chứ không có phước báu!
_ Quả báo gì cơ?
_ Cùng đứng chung trước vành móng… nhân quả!
_ Có tội ư?
_ Đúng vậy!
_ Hộ trì tu sĩ sao lại có tội?
_ Kẻ đưa tiền đút lót cho quan tham, có liên đới bị tội hối lộ không?
_ Thưa có. Nhưng bạch ngài, ở đây là tu sĩ chứ không phải quan tham, là hộ Tăng chứ không phải hối lộ?
_ Cũng vậy thôi! Một Tỳ-kheo nhận tiền là vì còn tham tiền, là phá giới, là lủng giới rồi. Tu sĩ tham tiền phá giới có làm tổn hại Tam Bảo không?
_ Dạ, có.
_ Tu sĩ tham tiền phá giới, làm tổn hại cho Tam Bảo có còn phước báu không?
_ Thưa, không.
_ Kẻ tạo điều kiện cho tu sĩ phá giới, mất phước, phá hoại Tam Bảo có chịu tội liên can không?
_ Dạ, có.
_ Cư sĩ cúng dường tiền khiến Tăng Ni phá giới, mất phước báu, còn mình tiếp tay tạo tội. Việc này nên hay không nên làm?
_ Thưa, không nên.
_ Vả lại, nơi nào nặng mùi đồng tiền tanh tưởi, nơi đó hương vị Đạo không còn, tình nghĩa nhạt nhòa. Mới trăm năm sau khi Phật nhập Niết Bàn, các Tỳ-khưu Vajji phá giới nhận tiền. Dân chúng tại đó kháo nhau họ không phải là con Phật.
_ Nhưng nếu vậy, cư sĩ chúng con làm thế nào để hộ trì Tăng Bảo đúng pháp, kiếm được nhiều phước ạ?
_ Câu hỏi này đáng ra phải hỏi trước, ông lại hỏi sau. Ông nghe đây, muốn hộ Chúng độ Tăng đúng pháp để có phước báu to lớn, trước hết, người cư sĩ cũng phải giữ tròn năm giới. Thứ hai: tứ sự cúng dường phải được tạo ra một cách chân chánh, đúng pháp. Thứ ba: cúng dường vị Tỳ-kheo giữ giới hạnh thanh tịnh chắc chắn có phước nhiều hơn vị Tỳ-kheo phá giới. Thứ tư: cúng dường tận tay và với tâm hoan hỷ.
_ Nhưng thưa ngài, thời nay chùa chiền, tịnh xá cần phải có tiền để lo cho Tăng chúng, và chi phí nhiều việc khác như tiền điện, tiền nước v.v...
_ Thời Phật nhiều thứ cũng phải mua, phải trả tiền! Tất nhiên có điều kiện thuận tiện tu hành vẫn tốt hơn; nhưng tu sĩ cứ ôm giữ tiền, lo mấy chuyện đó, họ còn thời gian, tâm trí đâu tu tập Giới-Định-Tuệ. Người cư sĩ giúp Tăng Ni vượt qua mâu thuẫn này, chính là tạo phước báu hộ trì Tam Bảo cho mình.
_ Thưa, chư Tăng Ni không được nhận tiền bạc nhưng cư sĩ chúng con vẫn có thể đóng góp tiền cho quỹ cúng dường Tam Bảo để khi hữu sự cần đến?
_ Đó là tạo phước hợp pháp, vì người tu sĩ giữ giới trọn vẹn, không dính dáng đến tiền bạc!
_ Có vài vị tăng nói rằng vì sợ người khác giữ tiền trốn luôn nên họ phải tự giữ.
_ Không thể dựa vào đây để phá giới của Phật, phải biết “chọn mặt gửi vàng” chứ. Ngay trong thời Phật, vấn đề này đã được Ngài tuyên bố dứt khoát rồi. Chính Ban Hộ Tự và mỗi người cư sĩ phải có trách nhiệm bảo vệ phần phước cúng dường của mình và của hội chúng. Nếu không, Tăng Ni nhận tiền, họ cũng trốn đấy!
_ Thưa, Tăng Ni sợ gì phải trốn và trốn đi đâu?
_ Trốn xuống đọa xứ, xuống địa ngục chứ đi đâu! Ông muốn cộng nghiệp với họ không?
_ Dạ, con hiểu rồi. Cảm ơn Hòa Thượng. Nhờ ngài con mới biết cúng dường đúng pháp và không đúng pháp. Con xin gửi biếu Hòa Thượng… À quên, con đi tìm Ban Hộ Tự đây.
_ Mô Phật! Biết cúng dường đúng pháp sẽ tạo quả lành cho thí chủ!
___________________
LUẬT TRÍCH LỤC
THUYẾT GIỚI ƯNG XẢ ÐỐI TRỊ
(Nissaggiyapācittiye vitthāruddeso)
Trích PHẨM 1: PHẨM Y
“10. Ðức vua, quan lại, Bà-la-môn hoặc gia chủ gởi theo sứ giả số tiềnsắm y, nói rằng: "Ngươi hãy lấy số tiền sắm y này mua y rồi dâng cho vị Tỳ-kheo tên ấy mặc".
Nếu vị sứ giả ấy đi đến vị Tỳ-kheo nọ và nói như sau: "Bạch Tôn giả, số tiền sắm y này được để dành cho Ngài, xin Ngài hãy nhận lãnh số tiền sắm y" vị Tỳ-kheo nọ nên bảo sứ giả rằng: "Này đạo đạo hữu, chúng tôi không thọ nhận tiền sắm y, chúng tôi chỉ nhận lãnh y hợp thời thôi" Nếu vị sứ giả ấy nói với vị Tỳ-kheo nọ rằng: "Có ai là người phục dịch cho Tôn giả chăng?"
Nầy chư Tỳ khưu, vị Tỳ-kheo có nhu cầu y thì nên chỉ ra người phục dịch hoặc người hộ tự hoặc một cận sự nam“Này đạo hữu, đó là người phục dịch của chư Tỳ khưu".
Nếu vị sứ giả ấy giao việc cho người phục dịch kia rồi, bèn đến vị Tỳ-kheo nọ mà nói như sau: "Bạch Tôn giả, người phục dịch mà Ngài đã chỉ ra, người ấy được tôi giao việc rồi, Tôn giả hãy đến họ và họ sẽ dâng y hợp thời cho Ngài mặc".
Nầy chư Tỳ-kheo, vị Tỳ-kheo có nhu cầu y nên đến người phục dịch mà thông báo gợi ý đôi ba lần rằng: "Ðạo hữu, tôi cần y". Khi thông báo gợi ý đôi ba lần, có được y ấy, như thế là tốt; bằng không thành thì phải đứng im lặng trước mặt họ bốn năm lần; nhiều lắm là sáu lần; khi đứng im lặng trước họ bốn, năm, sáu lần mà có được y ấy như thế là tốt, nếu không thành mà cố gắng vượt quá hạn ấy, thành tựu y, phạm ưng xả đối trị.
Nếu vẫn không thành thì từ đâu đưa tiền sắm y, phải tự mình đến đấy hoặc phái người đi, nói rằng:
"Các đạo hữu, tiền sắm y mà các ông đã gởi để dâng vị Tỳ-kheo, tiền đó không thành tựu lợi ích gì cho vị Tỳ-kheo ấy; các ông hãy đòi lại vật sở hữu, đừng bỏ phí vật sở hữu của các ông". Ðây là cách làm đúng trong trường hợp này.” (Trích Tạng Luật, TK Indacanda dịch)
{ Thừa tự Luật trích lục:
Theo lời dạy trên, vị Tỳ-kheo có thể chỉ định vị hộ tự hoặc cận sự nam tin cậy để lo tứ vật dụng hoặc những việc đúng Pháp, đúng Luật cho Tăng.
Tiền bạc ngay từ thời Phật đã phát sinh những vấn đề khiến Đức Thế Tôn không ít lần lên tiếng chấn chỉnh, răn dạy, chế luật đối trị. Mỗi Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nam nữ cư sĩ cần ý thức rõ để giữ tròn nhiệm vụ của mình.
- $ -
GIỚI ƯNG XẢ ĐỐI TRỊ TỔNG QUÁT
Trích PHẨM 2: PHẨM TƠ TẰM
Điều 18: Vị Tỳ-kheo nào nhận lấy vàng và bạc, hoặc sai nhận lấy, hoặc vui thích của để dành cho, phạm ưng xả đối trị.
[106] ... Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực. Nếu có người phụ việc chùa hoặc nam cư sĩ đi đến nơi ấy thì nên nói với người ấy rằng: “Này đạo hữu, hãy nhận biết vật này.” Nếu người ấy nói rằng: “Với vật này, hãy để cho vật gì được mang lại?” Không nên nói rằng: “Hãy mang lại vật này hoặc vật này.”
Nên đề cập đến vật được phép là bơ lỏng, hoặc dầu ăn, hoặc mật ong, hoặc đường mía. Nếu người ấy sau khi dùng (vàng bạc) ấy trao đổi và đem lại vật được phép thì tất cả nên thọ dụng trừ ra vị đã thọ lãnh vàng bạc. Nếu điều ấy có thể đạt được như vậy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không thể đạt được thì nên nói với người ấy rằng: “Này đạo hữu, hãy quăng bỏ vật này.”
Nếu người ấy quăng bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu (người ấy) không quăng bỏ thì nên chỉ định vị quăng bỏ vàng bạc là vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: là vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích, không thể bị chi phối bởi sự sân hận, không thể bị chi phối bởi sự si mê, không thể bị chi phối bởi sự sợ hãi, là vị biết vật đã được quăng bỏ hoặc chưa được quăng bỏ.
Điều 19: Vị Tỳ-kheo nào dự việc mậu dịch tài sản bằng mọi hình thứcphạm ưng xả đối trị.” (Trích “Luật Nghi Tổng Quát”, TK Giác Giới biên soạn)
{ Thừa tự Luật trích lục:
Giới luật đã rõ ràng cụ thể, vấn đề còn lại ở chỗ ý thức của người thọ trì. Phải thấy phạm tội là phạm tội, nhờ vậy nếu chưa phạm sẽ không phạm, hoặc nếu đã lỡ lầm phải thực tâm sám hối, được vậy sẽ giúp tránh khỏi tội.
Còn dùng lý lẽ này khác để biện minh cho tội lỗi, thì chưa phạm sẽ phạm tội, phạm tội rồi sẽ tiếp tục phạm nữa. Theo kiểu như thế này:
Tội do tâm khởi, do tâm diệt.
Tâm đã tịnh rồi tội liền tiêu
Tội tiêu tâm tịnh , thảy đều không
Đó mới thực là chân sám hối
Pháp và Luật của Đức Thế Tôn biến mất cũng vì những “chân sám hối” kiểu này.
- $ -
Dưới đây là các trích lục trong kinh Nikāya do HT Thích Minh Châu dịch Việt
Đức Phật dạy trong kinh ‘Manicùlam (Châu Báu Trên Đỉnh Đầu) (S.iv,325)
“Này Thôn trưởng, các Sa-môn Thích tử không được phép dùng vàng bạc. Các Sa-môn Thích tử không được giữ vàng bạc. Các Sa-môn Thích tử không được nhận lấy vàng bạc. Các Sa-môn Thích tử đã từ bỏ châu báu và vàng bạc. Họ đã ly khai vàng và bạc.
Ðối với ai được dùng vàng bạc, người ấy cũng được phép dùng năm dục công đức. Ðối với ai được phép dùng năm dục công đức, người ấy hoàn toàn thọ trì phi Sa-môn pháp, phi Thích tử pháp.
Này Thôn trưởng, Ta nói như sau: Cỏ được đi tìm cầu bởi ai cần đến cỏ. Củi được đi tìm cầu bởi ai cần đến củi. Cỗ xe được đi tìm cầu bởi ai cần đến cỗ xe. Người được đi tìm cầu bởi ai cần đến người. Nhưng này Thôn trưởng, không bất cứ một lý do gì Ta nói rằng vàng, bạc được chấp nhận, được tìm cầu”.
{ Thừa tự Pháp trích lục:
Kính lạy Đức Thế Tôn, lời Ngài răn dạy là như thế, nhưng một số nơi đã quên đi đến nỗi sự thọ dụng năm dục công đức được xem là phước báu của người tu. Nhiều nơi đua nhau sắm xe hơi,  mua Iphone, Ipad đời mới mắc tiềnphòng ngủ lắp máy lạnh  v.v… và v.v…
 Khi tìm cầu đủ thứ thì cũng phải có tiền thỏa mãn đủ thứ với bất cứ cách thức nào, bất cứ phương tiện gì. Luật thanh tịnh trở thành sợi dây phiền toái. Đạo giải thoát trở thành điều mơ hồ viễn vông. Lý tưởng thoát khổ biến mất, thay vào đó là cuộc sống nửa đạo nửa đời và khổ đau toàn diện, giống như khúc cây cháy hai đầu đã được Đức Thế Tôn nhắc đến trong đoạn kinh sau đây:
“Vị ấy có tham dục đối với các dục vọng, tham ái cuồng nhiệt, tâm tư sân hận, tư niệm ô nhiễm, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tán loạn, các căn không chế ngự. Ví như, này các Tỷ-kheo, một que củi từ chỗ hỏa táng, cả hai đầu đều cháy, ở giữa lại dính phân, không được dùng làm củi trong làng, không được dùng làm củi trong rừng.
Dùng ví dụ ấy, Ta tả cho các Ông con người ấy, đã mất cả nhà và tài sản, lại không làm viên mãn mục đích của Sa-môn hạnh” (TƯ3, 91= [Ve.7.80.18]).
- $ -
Đức Phật dạy trong kinh Các Uế Nhiễm, Tăng Chi tập 1, Chương 4, V. Phẩm Rohitassa
“… 2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn uế nhiễm này của các Sa-môn, Bà-la-môn, do uế nhiễm này làm ô nhiễm, các Sa-môn, Bà-la-môn không có cháy sáng, không có chói sáng, không có rực sáng. Thế nào là bốn?
Này các Tỷ-kheo, một số Sa-môn, Bà-la-môn uống rượu men, uống rượu nấu, không có từ bỏ rượu men, rượu nấu. Này các Tỷ-kheo, đây là uế nhiễm thứ nhất của Sa-môn, Bà-la-môn, do uế nhiễm này làm ô nhiễm, các Sa-môn, Bà-la-môn, không có cháy sáng... không có rực sáng.
Này các Tỷ-kheo, một số Sa-môn, Bà-la-môn, hưởng thọ dâm dục, không từ bỏ dâm dục. Này các Tỷ-kheo, đây là uế nhiễm thứ hai... không có rực sáng.
Này các Tỷ-kheo, một số Sa-môn, Bà-la-môn chấp nhận vàng và bạc, không từ bỏ nhận lấy vàng và bạc. Này các Tỷ-kheo, đây là uế nhiễm thứ ba... không có rực sáng.
Này các Tỷ-kheo, một số Sa-môn, Bà-la-môn sinh sống với tà mạng, không từ bỏ tà mạng. Này các Tỷ-kheo, đây là uế nhiễm thứ tư của các Sa-môn, Bà-la-môn, do uế nhiễm này làm ô nhiễm, các Sa-môn, Bà-la-môn không có cháy sáng, không có chói sáng, không có rực sáng.
Này các Tỷ-kheo, có bốn uế nhiễm này của các Sa-môn, Bà-la-môn, do những uế nhiễm này làm ô nhiễm, nên các Sa-môn, Bà-la-môn không có cháy sáng, không có chói sáng, không có rực sáng.
{ Thừa tự Pháp trích lục:
Bốn uế nhiễm của các Sa-môn, Bà-la-môn cũng là bốn uế nhiễm của người tu sĩ nói chung. Những lời dạy chí tình của Đấng Ân Sư Từ Phụ cần phải được nhắc đi nhắc lại, ghi nhớ hành trì. Được vậy những người con của Ngài mới thoát khỏi vũng lầy của đau khổ, đọa xứ.
- $ -
Kinh Trùng Phẩn (Tạp, Ðại 2, 346a) (S.ii,228)
1) ... Tại Sāvatthi.
2) -- Khổ lụy, này các Tỷ-kheo, là lợi đắc, cung kính, danh vọng...
3) Ví như, này các Tỷ-kheo, một con trùng phẩn, ăn phân, đầy những phân, tràn ngập những phân, và trước mặt có một đống phân lớn.
4) Nó khinh miệt các con trùng phẩn khác và nói: "Ta ăn phân, đầy những phân, tràn ngập những phân, và trước mặt ta, có đống phân lớn này".
5) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, có Tỷ-kheo bị lợi đắc, cung kính, danh vọng chi phối, tâm bị xâm chiếm, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, vào làng hay thị trấn để khất thực. Vị ấy tại đây đã ăn uống no đủ, lại được mời vào ngày mai, và bình bát của vị ấy được tràn đầy.
6) Vị ấy đi đến ngôi vườn (tịnh xá) và giữa chúng Tỷ-kheo khoe khoangnhư sau: "Ta ăn uống no đủ, lại được mời vào ngày mai, và bình bát này của ta tràn đầy. Ta nhận được các vật dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bịnh. Nhưng các Tỷ-kheo khác công đức ít, ảnh hưởng ít, không nhận được các vật dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh".
7) Vị ấy bị lợi đắc, cung kính, danh vọng chi phối, tâm bị xâm chiếm, khinh miệt các Tỷ-kheo chánh hạnh khác. Này các Tỷ-kheo, như vậy sẽ đem lại bất hạnh, đau khổ lâu dài cho kẻ ngu si ấy.
8) Như vậy, khổ lụy, này các Tỷ-kheo, là lợi đắc, cung kính, danh vọng...
9) Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.”
{ Thừa tự Pháp trích lục:
Kính lạy Đức Thế Tôn, những ai là những người con chân chính của Ngài sẽ phải ghi tâm khắc cốt, học tập những lời dạy thực sự của Ngài.
Phước có hai loại là phước hữu lậu và phước vô lậu. Phước hữu lậu là phước đi kèm với phiền não khổ đau như có danh vọng, tiền bạc, chức tước. Phước vô lậu là phước giải thoát khổ đau hiện tại lẫn tương lai.
Bồ-tát Gotama có tột đỉnh phước hữu lậu, nhưng Ngài từ bỏ tất cả để đạt phước vô lậu giải thoát. Nhưng nhiều người con của Ngài làm ngược lại, họ quay lưng với phước báo giải thoát để bòn mót phước của phiền não ưu sầu.
Đức Phật từ bỏ cung vàng điện ngọc để dấn thân làm vị Khất Sĩ gieo duyên cứu độ chúng sanh, nhưng nhiều con Ngài từ bỏ đạo hạnh thanh bạch, đua nhau xây chùa vàng điện ngọc để thụ hưởng tranh đua.
Do vậy chỉ có kẻ ngu si mới dựa vào lợi đắc, cung kính, danh vọng để khoe khoang, khinh miệt các vị tu hành chân chánh. Kẻ kiêu căng làm vậy chỉ gặt lấy bất hạnh khổ đau lâu dài như những con trùng ăn phẩnmà thôi.
PHẠM THIÊN HÀNH LUẬT

TƯỞNG CHỨNG MÀ KHÔNG CHỨNG! TƯỞNG HAY MÀ HÓA RỒ!


Đức Phật dạy cho sadi Cunda trong bài kinh Thanh Tịnh, số 29, Trường Bộ 2:

17. Nếu có ai, khi tả một phạm hạnh, thành tựu hết thảy tướng, không thiếu sót, không quá đáng, được khéo tuyên bố một cách viên mãn, vị ấy nếu tuyên bố đúng đắn sẽ tuyên bố như sau: "Phạm hạnh này thành tựu hết thảy tướng, cụ túc hết thảy tướng, không thiếu thốn, không quá đáng, được khéo tuyên bố một cách viên mãn, được khéo trình bày".

Này Cunda, Uddaka con của Rāma thường nói: "Thấy mà không thấy". Thấy cái gì mà không thấy? Với một con dao sắc bén, chỉ thấy lưỡi dao không thấy khía cạnh sắc bén của dao. Này Cunda, đấy là nghĩa của câu: "Thấy mà không thấy". Này Cunda, ở đây Uddaka con của Rāma đề cập đến một vật đê tiện, hạ liệt, thuộc về phàm phu, không xứng bậc Thánh, không có lợi ích, nói về con dao.

Này Cunda, nếu nói đúng đắn câu "Thấy mà không thấy", thời phải nói như sau: "Thấy mà không thấy". Vị ấy thấy cái gì mà không thấy? Một phạm hạnh, thành tựu hết thảy tướng, đầy đủ hết thảy tướng, không thiếu sót, không quá đáng, được khéo tuyên bố một cách viên mãn, được khéo trình bày. Chính vị ấy thấy phạm hạnh này.

Nếu vị ấy trừ bớt một phương diện nào tại một chỗ nào, nghĩ rằng làm vậy sẽ được rõ ràng hơn, vị ấy sẽ không thấy gì. Nếu vị ấy thêm vào một phương diện nào tại chỗ nào, nghĩ rằng làm vậy sẽ được rõ ràng hơn, vị ấy sẽ không thấy gì. Nếu vị ấy thêm vào một phương diện nào tại chỗ nào, nghĩ rằng làm vậy được viên mãn hơn, vị ấy sẽ không thấy gì. Như vậy gọi là "Thấy mà không thấy".

Này Cunda, nếu có ai khi tả một phạm hạnh thành tựu hết thảy tướng, không thiếu sót, không quá đáng, được khéo tuyên bố một cách viên mãn, vị ấy nếu tuyên bố đúng đắn sẽ tuyên bố như sau: "Phạm hạnh này thành tựu hết thảy tướng, cụ túc hết thảy tướng, không thiếu thốn, không quá đáng, được khéo tuyên bố một cách viên mãn, được khéo trình bày".

18. Do vậy, này Cunda, những pháp do Ta tự chứng tri và tuyên bố cho các Ngươi, tất cả các Ngươi hãy hội họp lại và tụng đọc lại, chớ có cãi lộn nhau, nhưng hãy so sánh các nghĩa với nhau, các câu với nhau để cho phạm hạnh này được tồn tại lâu dài, được an trú lâu dài, vì hạnh phúc cho muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì an lạc cho chư Thiên và cho loài Người.

Này Cunda, thế nào là những pháp do Ta tự chứng tri và tuyên bố cho các Ngươi, tất cả các Ngươi hãy hội họp lại và tụng đọc lại, chớ có cãi lộn nhau, nhưng hãy so sánh các nghĩa với nhau, các câu với nhau, để cho phạm hạnh này được tồn tại lâu dài, được an trú lâu dài, vì hạnh phúc cho muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì an lạc cho chư Thiên và cho loài Người?

Những pháp ấy là Bốn Niệm Xứ, Bốn Chánh Cần, Bốn Như Ý Túc, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Giác Chi, Tám Thánh Đạo.

Này Cunda, những pháp ấy do Ta tự chứng tri và tuyên bố cho các Ngươi, tất cả các Ngươi hãy hội họp lại và tụng đọc lại, chớ có cãi lộn nhau, nhưng hãy so sánh các nghĩa với nhau, các câu với nhau, để cho phạm hạnh này được tồn tại lâu dài, được an trú lâu dài, vì hạnh phúc của muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì an lạc cho chư Thiên và cho loài Người.” (Hết trích)

@ Thừa tự Pháp trích lục:

Một giáo pháp đã được Đức Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác tuyên thuyết với đầy đủ thành tựu hết thảy tướng, cụ túc hết thảy tướng, không thiếu thốn, không quá đáng, được khéo tuyên bố một cách viên mãn, được khéo trình bày’, thì những ai nghĩ rằng phải thêm phải bớt một chút gì thực ra họ chẳng hiểu một chút gì.

Chính vì không hiểu gì cho nên có kẻ đời sau bắt chước Uddaka rêu rao ‘chứng mà không chứng, đắc mà không đắc’. Thực ra họ chỉ ‘tưởng chứng mà không chứng, tưởng thấy mà không thấy’ chứ chẳng chứng chẳng đắc cái gì cả. Và cũng chính vì ‘tưởng chứng mà không chứng, tưởng  đắc mà không đắc’ cho nên lắm kẻ mới vẽ thêm pháp này luận kia cho thêm rối rắm.

Đủ tám mươi bốn ngàn tông phái rắm rối trong đạo khiến những người đời sau chẳng biết pháp nào đúng pháp nào sai. Cuối cùng mọi người chỉ còn biết ai nói sao tin làm vậy, nhắm mắt tín bừa tu đại. 

Nào là chỉ cần niệm một tên thôi dù tội ác đến đâu cũng được lên thiên đàng giải thoát, thế là tất cả hè nhau ra rả ‘á mi tù phù, á mi tù mù’. 

Nào là giáo pháp thượng thừa từ bên ngoài truyền dạy riêng (cho kẻ liều mình chặt tay), thế là thi nhau chạy theo giáo ngoại biệt truyền để rồi quay lưng với Chánh Thiền Thánh Định của Đức Thế Tôn.

Chưa hết, ngay cả những người tự xưng là con Phật chính thống, thế nhưng họ lại không theo đúng đạo lộ của Đức Thế Tôn. Tất cả chỉ biết qua loa ngoài miệng Ba Mươi Bẩy Phẩm Trợ Đạo, mỗi phái tu mỗi kiểu theo tưởng giải riêng của ông thầy. 

Nào là mười sáu tầng tuệ sát minh, trong đó có ‘tầng tuệ thứ chín - tuệ cuốn chiếu’ có nghĩa là tu hoài không thấy chứng chỉ thấy phiền não, nếu có cuốn chiếu bỏ về thì đó là đã đạt ‘tầng tuệ thứ chín’ (sic)

Có người nói rất đúng, nếu 16 tầng tuệ sát minh siêu việt giúp đi tới giải thoát thì Bậc Thầy Trời Người đã dạy rồi, cần gì đến cuốn chiếu, cần chi phải để đệ tử đời sau chỉ ‘dại’ các con Phật mới giác ngộ? Không lẽ ông đệ tử này giỏi hơn Đấng Vô Thượng Sư? Hẳn chỉ có si mê cuồng tín mới tu theo.

Chưa hết, lại còn lắm ôn tin theo các gián điệp đời sau, cuồng mạn chê Kinh Phật chỉ là thường pháp, là tục đế, không phải chân nghĩa đế; chỉ có luận vi diệu pháp được giới thiệu sau này mới thật cao siêu vi diệu. Thế là cả một truyền thống suốt hàng ngàn năm theo đây chỉ ‘dại’.

Không một ai biết cẩn trọng đặt vấn đề: nó có thực là pháp của Phật không? Chuyện từ trên trời đưa xuống, một đứa con nít cũng bịa được, cần gì các luận sư?

Tại sao xuyên suốt hai tạng Kinh Nikāya và Luật Pātimokkha, Đức Thế Tôn không dạy ba thứ tâm hổ lốn này? Nếu nó thực sự vi diệu thì Ngài đã dạy trong Kinh và Luật rồi, cần chi đến Ba Mươi Bẩy Phẩm Trợ Đạo?

Các thứ tâm sở, tâm vương, tâm hiệp thế, tâm đáo đại v.v.. và v.v.. giúp diệt tham, diệt sân, diệt phiền não khổ đau cụ thể như thế nào? Hay tất cả mớ khái niệm mơ hồ ấy chỉ khiến người tin theo phải khổ sở thêm vì học thuộc lòng để rồi lên mặt với nhau và chê bai coi thường cả Chánh Pháp trong Thánh điển Nikāya và Thánh Luật trong Pātimokkha?

Thật ra không phải chỉ có ngoại học Uddaka ‘tưởng thấy mà không thấy’ mà chính những vị mang danh là con Phật nhưng không tu theo đúng Pháp của Phật, lại tu theo tám vạn bốn ngàn pháp vớ vẩn, để rồi tưởng chứng mà không chứng, tưởng đắc mà không đắc, vẽ vời thêm bớt đủ thứ, cứ tưởng như vậy là hay nhưng thật ra lại hóa rồ!

KINH LUẬT SƯ