Thứ Bảy, 23 tháng 6, 2018

VÌ SAO ĐỆ TỬ LONG XÀ CẦN PHẢI ĂN CHAY?

Tôi tự hào sẵn sàng tuyên bố một triệu lần rằng: tôi là đệ tử trung thành của luận sư Bà-la-môn Long Xà vĩ đại và các tổ sư gốc Bà-la-môn lừng danh khác như các ngài Mã Kinh, Phế Thân, Vô Phước... Tất cả các ngài đều xiển dương cho truyền thống Đại Thừa vĩ đại, trong đó có giới luật ăn chay ngày ba bốn bữa sáng-trưa-chiều-tối.
Tôi cũng vâng lời các ngài xem khinh bọn Tiểu Thừa vì cái tội chúng dám ăn tam tịnh nhục, lại còn lên mặt đạo đức giả bày đặt khổ hạnh ăn ngày một bữa (sic).
Là đệ tử trường chay đã nhiều năm, tôi ý thức được các lý do chính đáng của giới hạnh ăn rau cỏ một cách rõ ràng cụ thể như thế này:
" Tôi ăn chay vì tôi muốn nối tiếp truyền thống nguyên thuỷ chính thống một cách triệt để. Bởi lẽ, đạo ăn chay đã có từ trước thời Đức Thế Tôn, tập tục này bắt nguồn từ các tu sĩ Bà La Môn. Sau này, khi Đức Phật đã nhập Niết-bàn, các Tổ sư Đại Thừa gốc Bà-la-môn đã tiếp tục xiển dương truyền thống này trong Phật giáo Đại Thừa.
Như vậy khi không ăn thịt, không ăn cá là tôi đã nguyên thuỷ hơn cả những người nguyên thuỷ; truyền thống hơn cả những người truyền thống.
" Tôi ăn chay vì muốn tăng trưởng lòng từ bi, trí tuệ và để bớt tham ái giống như Đề Bà Đạt Đa. Thật vậy, xưa kia Đề Bà Đạt Đa cũng biết ăn chay và lợi ích của ăn chay nên đã đề nghị Đức Thế Tôn ban năm điều giới cấm, trong đó có giới thứ 5 cấm Tỳ-kheo ăn thịt-cá. Thật đáng tiếc, ý kiến thâm sâu này của Đề Bà Đạt Đa đã không được Đức Thế Tôn chấp nhận. 
Chánh Luật Pātimokkha còn ghi rõ rành rành Đề Bà Đạt Đa nói với các thủ hạ của ngài như thế này:
“...Không ăn cá thịt cho đến trọn đời, vị nào ăn cá thịt thì vị ấy phạm tội.” Sa-môn Gotama sẽ không cho phép năm sự việc này. Và chúng ta đây sẽ công bố cho dân chúng biết về năm sự việc này.
- Này đại đức, với năm sự việc này có thể tiến hành việc chia rẽ hội chúng của Sa-môn Gotama, tức là việc phân chia quyền lãnh đạo. Này đại đức, bởi vì dân chúng có niềm tin với khổ hạnh” (Tiểu Phẩm, chương 7 “Chia rẽ hội chúng”, đoạn 383, bản dịch của Tk Nguyệt Thiên)
Ý kiến của Đề Bà Đạt Đa là rất từ bi, trí tuệ và thâm sâu thật sự! Vì sao? Này nhé:
! “Vì dân chúng có niềm tin vào khổ hạnh” cho nên không ăn cá thịt là hành khổ, vì vậy chúng ta nói to cho dân chúng biết chúng ta ăn chay, hẳn dân chúng dễ tin chúng ta hơn. Đây là pháp khuyến dụ cao đẳng số một.
! Vì Đề Bà Đạt Đa biết khéo léo lên án ăn mặn và tỏ ra từ bi ngay cả trong miếng ăn nên đã lôi kéo được năm trăm tân Tỳ-kheo tin theo ngay ông ta. Tất nhiên, các Tỳ-kheo non trẻ đều đơn giản nghĩ rằng: chẳng lẽ một kẻ đến con cá lòng tong cũng không nỡ ăn thì làm sao gây tội ác cho được. Đây là pháp đắc nhân tâm cao cấp số dzách.
! Vì chiêu bài ăn chay giúp lôi kéo được một số tân Tỳ-kheo tin theo, nên giáo đoàn được phân hóa mạnh mẽ đúng với phương châm “Phật giáo đa phương, đa diện” của các tổ sư gốc Bà-la-môn sau này. Có thể nói với giới luật ăn chay, Đề Bà Đạt Đa và các tổ sư gốc Bà-la-môn chính là các bậc thầy trong ngành tâm lý chiến. Tôi ăn chay là nhớ ơn các ngài, và cũng để thực thi pháp “đa tông, đa phái” phân hoá Tăng đoàn một cách êm thắm này.
! Vì Đề Bà Đạt Đa ăn chay và xiển dương ăn chay nên A Xà Thế cũng dễ dàng tin tưởng và nghe theo ông ta. Nhờ tin và làm theo lời của Đề Bà Đạt Đa nên A Xà Thế mới được làm vua và cả hai cùng đi vào lịch sử, lưu danh thiên cổ. Vì vậy, ăn chay dễ chiếm cảm tình của người khác, từ đó có thể giúp tôi leo lên nhiều tầm cao mới. Đây cũng là pháp đắc đạo vang danh siêu tuyệt.
! Nhờ biết ăn chay và xiển dương không ăn thịt cá nên Đề Bà Đạt Đa cũng biết thương yêu A Xà Thế và mẹ của ông này. Với lòng yêu thương rộng mở, Đề Bà Đạt Đa chỉ xúi A Xà Thế đoạt ngôi vua bằng cách giết vua cha và các cận thần chứ không giết bà mẹ. Đây là pháp bác ái vị tha siêu đẳng.
! Cũng nhờ ăn chay có từ tâm nên Đề Bà Đạt Đa chỉ lăn đá làm chân Phật chảy máu chứ không làm thân ngài máu chảy. Đây là pháp bác ái vị tha siêu việt.
! Nhờ có ăn chay nên Đề Bà Đạt Đa chỉ cố ý dùng voi điên hù dọa Đức Phật chứ chắc ông ta không nỡ giết ngài. Đây là pháp bác ái vị tha siêu xuất.
! Nhờ có ăn chay, ít ác dục nên Đề Bà Đạt Đa chỉ muốn giành quyền lãnh đạo Tăng đoàn chứ không đòi thống trị toàn cõi Ấn Độ. Đây là pháp diệt dục, trừ tham ái tuyệt vời.
Tóm lại nhờ Đề Bà Đạt Đa biết ăn chay, chứ nếu Đề Bà Đạt Đa mà ăn mặn thì chắc chắn Đề Bà Đạt Đa đã không là Đề Bà Đạt Đa đại bác ái, đại vị tha, đắc nhân tâm đến như vậy.
Sau này, nghe nói, có kẻ diệt chủng cũng ăn chay thuần chủng và cũng đã khiến hàng ngàn người tuyệt chủng. Chắc nhờ ăn chay nên kẻ diệt chủng chỉ giết có chừng đó, chứ bao kẻ ăn “tam tịnh nhục” có tên nào gan dạ như thế đâu? Ai muốn chứng minh ăn chay là từ bi, phải dẫn chứng các danh nhân tiêu biểu này.
(Ghi chú: Có những kẻ diệt chủng khác ăn mặn, chứ không ăn “Tam tịnh nhục”. Ăn mặn và “Tam tịnh nhục” khác nhau hoàn toàn).
"  Tôi ăn chay vì có vị Hoà thượng ăn chay từ thuở lọt lòng mẹ đã dạy rằng “do bọn lính Khờ-me đỏ hồi nhỏ ở trong chùa Tiểu Thừa ăn thịt cá, nên lớn lên vẫn ngu dại và độc ác, dám giết hàng triệu đồng bào ruột thịt của mình”. Đúng là mấy tên Khờ-me đỏ ăn mặn nên mới cuồng si như thế, chứ lính Phát-xít Nhật xuất thân từ đất nước Đại Thừa có truyền thống ăn chay, nên họ khôn ngoan hơn nhiều. Họ chỉ giết hàng chục triệu người thuộc các dân tộc khác, trong đó có hơn hai triệu người Việt bị chết đói, chứ họ không ngu si tàn sát diệt chủng người dân nước mình.
Quả là con cháu của Bồ-tát nghịch hạnh Đề Bà Đạt Đa, của xứ sở kinh Pháp Hoa vừa biết ăn chay vừa khôn ngoan và vô úy đến tận cùng. Thực đáng kính sợ! (Tất nhiên khi Khờ-me đỏ và Phát-xít Nhật ra tay, họ chẳng bao giờ nhân danh Phật tử)
Chính vị trưởng lão này còn viết sách công khai chửi hàng triệu triệu Phật tử Nam Tông “có mắt như mù, có tai như điếc”, vì họ cứ u mê dại dột tuân theo truyền thống của mình cúng dường cho mấy lão sư ăn mặn. Vị Hòa thượng này nhờ ăn chay nên chỉ chửi có bấy nhiêu, chứ ngài mà ăn tươi nuốt sống chúng sanh như những loài rắn, cáo thì cả đám thiên hạ còn bị sỉ nhục đến đâu. Thử hỏi, có kẻ nào dám quá mạn, chỉ vì chuyện ăn uống, lại lớn tiếng chửi bới thiên hạ như ngài? Qua đó, cho thấy lợi ích ăn chay thực quá dzõ dzàng!
" Tôi ăn chay vì có vị Hòa thượng Tiến sĩ Phật học dạy rằng điều lợi ích thiết thực cụ thể nhất của việc không ăn cá thịt đó là “ăn chay không bị mắc xương”. Thế ra khi tôi thực hiện được điều ích lợi hiển nhiên này, xem như tôi đã được đồng đẳng với mấy con trâu, con bò hiền lành.
Chứ gì nữa, cả đời bọn chúng có con nào ăn cá đâu mà mắc xương. Thế mới biết ăn chay ăn cỏ, không ăn cá thịt để cả đời khỏi bị mắc xương như các loài bàng sanh mới thực sự khôn ngoan, đại trí, đại huệ. Trâu, bò khôn ngoan là thế, chỉ có con người còn vô minh nên mới gọi chúng là “ngu như bò”.
" Tôi ăn chay vì lòng độ tha cao cả. Tôi thương yêu tất cả mọi loài chúng sanh và hằng nguyện cứu giúp cho cả con sâu cái kiến. Vì vậy, hàng ngày, trong từng ly nước tôi uống, trong mỗi dĩa rau tôi ăn, trong các khoanh đậu hũ tôi nuốt đã có vô số, vô lượng chúng sanh được tôi hoá kiếp trong bao tử của tôi (nếu ai không tin cứ đem soi các món chay dưới kính hiển vi khắc biết).
Bên cạnh đó, tôi ăn rau để kích thích người nông dân xới đất trồng rau, phun thuốc diệt sâu bọ, có vậy mới giúp vô số các chúng sanh ấy được chuyển hóa. Nhiều người còn dạy con cháu khi giết gà, giết vịt phải nhớ niệm bác ái “hóa kiếp này mày ra kiếp khác” để hóa độ chúng sanh thì sao? Người nhai nuốt vô số chúng sanh cũng phải có từ tâm như thế, phải xem tất cả các chúng sanh đều bình đẳng như nhau.
Ngược lại, những kẻ ăn thịt theo kiểu tam tịnh (không thấy, không nghe, không nghi), chỉ ăn thịt chết đã nấu sẵn, điều này có nghĩa họ đã từ chối công đức hoá kiếp vô số vô lượng chúng sanh li ti trong nước lọc và rau cỏ.
Hơn nữa ba, bốn người ăn mặn mới tạo duyên hoá kiếp cho một con gà; hàng chục người ăn thịt mới tạo dịp cho một con heo được siêu thoát. Ích kỷ đến như thế mà dám nói tới hai chữ từ bi, thật không biết xấu hổ! Thử hỏi ai đã tạo nhiều công đức hoá kiếp cho các chúng sanh khác hơn ai? Đúng là đồ đạo đức giả!
" Tôi ăn chay vì kinh Lăng Già của Đại Thừa lên án gắt gao ăn mặn. Chắc hẳn ông Bụt trong kinh Lăng Già không muốn như Đức Phật trong Kinh Nikāya bị bọn ngoại đạo vu khống, đả kích khi Ngài được tướng quân Sīha thỉnh mời trai tăng và cúng dường thịt “tam tịnh”.
Kinh Tiểu Thừa còn ghi rõ thế này: “Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đến trú xứ của tướng quân Sīha; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn, với chúng Tỷ-kheo. Lúc bấy giờ nhiều người Niganthā ở Vesālī, từ đường lớn này đến đường lớn khác, từ đường hẻm này đến đường hẻm khác, múa tay la lớn"Hôm nay, tướng quân Sīha đã giết một con thú lớn, và một bữa cơm được soạn cho Sa-môn Gotama, và Sa-môn tuy biết vậy, vẫn ăn món thịt được sửa soạn, do duyên vì mình được sửa soạn ra".
Rồi một người đi đến tướng quân Sīha, sau khi đến, nói nhỏ vào tai tướng quân Sīha: "Thưa Tôn giả, Tôn giả có biết chăng? Nhiều Niganthā ở Vesālī, từ đường lớn này đến đường lớn khác, từ đường hẻm này đến đường hẻm khác, múa tay la lớn: ‘Hôm nay, tướng quân Sīha đã giết một con thú lớn, và một bữa cơm đã được soạn cho Sa-môn Gotama, và Sa-môn tuy biết vậy, vẫn ăn món thịt được sửa soạn, do duyên vì mình được sửa soạn ra’.
‘-Thôi vừa rồi, này bạn. Ðã lâu rồi, các Tôn giả ấy muốn chỉ trích Phật, muốn chỉ trích Pháp, muốn chỉ trích các chúng Tăng. Nhưng các Tôn giả ấy không làm hại gì được Thế Tôn với những lời xuyên tạc không có thật, trống rỗng, láo khoét. Và chúng ta không vì sinh mạng lại cố ý sát hại sinh mạng của loài hữu tình’ (Tăng Chi 3, trang 542).
Trước đó, chính Đức Thế Tôn đã khen tướng quân Sīha là người trứ danh. Khốn nỗi trên thế gian này người trứ danh rất hiếm; còn bọn thích vu cáo, trống rỗng, láo khoét, giả nhân giả nghĩa thì thời nào cũng có và lại khá đông đảo. Vì thế tôi ăn chay để bọn thối tâm, thối miệng không có dịp đả kích bôi nhọ là yên chuyện. Có như vậy tôi mới là kẻ thức thời và hiểu đạo Lăng Già Đại Thừa.
" Tôi ăn chay vì tôi không tin kinh Nguyên Thủy lại có chuyện một cư sĩ “trứ danh” khác dám cúng dường Đức Thế Tôn món thịt chín và Ngài đã thọ dụng. Như vầy tôi đọc trong bài kinh “Cho Các Vật Khả Ái”, Tăng Chi 2, Chương 4, V. Phẩm Vua Munda, trang 382 còn ghi rõ:
Một thời, Thế Tôn trú ở Vesālī, rừng Ðại Lâm, tại giảng đường có nóc nhọn. Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi đến trú xứ của gia chủ Ugga người Vesālī, sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi gia chủ Ugga, người Vesālī đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, gia chủ Ugga, người Vesālī bạch Thế Tôn:
… Bạch Thế Tôn, con nghe như sau từ miệng Thế Tôn, con có nhận lãnh như sau từ miệng Thế Tôn: "Ai cho vật khả ý, nhận được điều khả ý". Bạch Thế Tôn, con có thịt heo nấu chung với trái táo, thật là khả ý. Mong Thế Tôn nhận lấy, vì lòng từ ái (chúng con)!
Và Thế Tôn nhận lấy, vì lòng từ ái…”
Đoạn kinh này chắc chắn là giả tạo, vì có đời thuở nào thịt heo lại nấu chung với trái táo? Thật vô lý, làm gì có chuyện thịt chín lại đi hầm chung với món tráng miệng? Thú thực, từ khi cha sanh mẹ đẻ đến giờ, tôi chưa từng nghe có món ăn nào như vậy. Chỉ có thịt heo nấu chung với cà pháo, hoặc lòng heo nấu chung với cháo mà thôi!
Rõ ràng là đã có kẻ bịa đặt nào đó thêm vào thực đơn kỳ lạ này để ca ngợi lòng từ ái của Đức Thế Tôn khi ngài dám thọ dụng tam tịnh nhục, và khuyến khích mọi người nên cúng dường điều khả ý để nhận được điều khả ý theo đúng luật nhân quả.
Những kẻ bịa đặt này phải để “những người Niganthā ở Vesālī từ đường lớn này đến đường lớn khác, từ đường hẻm này đến đường hẻm khác, múa tay la lớn” may ra mới biết sợ!
Có người cho rằng những đoạn kinh Nguyên Thủy chứng minh cách ăn tam tịnh nhục là do người đời sau thêm vào. Đúng như vậy! Tôi tin chắc một ngàn lẻ một phần trăm là như thế. Vì sao? Vì mấy đoạn kinh Đại Thừa ca ngợi ăn chay và luật Bồ-tát giới cấm ăn mặn do các Bồ-tát gốc Bà-la-môn kết tập sau này hoàn toàn không có như vậy.
Với đức tin vô biên nơi các ngài tổ sư gốc Bà-la-môn, tôi xin mạnh dạn tuyên bố: “chỉ có những kẻ đại ngu si lắm lắm mới không dám tin vào các ngài đại Bồ-tát Bà-la-môn Đại Thừa và các kinh-luật-luận sau này do các ngài kết tập”!
Chính Đức Phật trong kinh của Tiểu Thừa đã nhắc nhở những kẻ ăn tam tịnh nhục: “Này Kassapa, địa giới không làm diệu pháp biến mất, thủy giới... hỏa giới... phong giới không làm diệu pháp biến mất. Ở đây, khi nào các người ngu có mặt, chính họ làm diệu pháp biến mất” (Tương Ưng tập 2, trang 386).
Ăn chay là diệu pháp truyền thống có từ thời Bà-la-môn giáo, nó đã được các Bà-la-môn ca ngợi và y cứ vào đây để lên án tất cả những kẻ ăn không giống họ, vì thế không được làm cho nó biến mất.
Tóm lại, Bồ-tát giới và luật ăn rau cỏ muôn năm!
" Tôi ăn chay vì lý tưởng hy sinh mà bài kinh “Tự Hành Hạ Mình” đã chỉ rõ:  “…Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người sống lõa thể, sống phóng túng không theo lễ nghi, liếm tay cho sạch, không ăn cá, không ăn thịt, không uống rượu nấu, rượu men, không uống nước cháo. Vị ấy chỉ ăn cỏ hoang, ăn lúa tắc, ăn lúa hoang, ăn da vụn, ăn rong nước, ăn bọt tấm, ăn váng gạo, ăn bột vừng, ăn cỏ hay ăn phân bò. Vị ấy ăn trái cây, ăn rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống…”  (Tăng Chi 2, Chương 4, XX. Đại Phẩm, trang 214)
Như Bồ-tát nghịch hạnh Đề Bà Đạt Đa đã nói ở trên, thói thường ở đời, những bậc khổ hạnh bao giờ cũng được nhiều người khác tin tưởng rằng có tu, có hạnh. Do vậy, tôi ăn chay khổ hạnh, tự hành hạ chính mình cũng nhằm đạt được danh xưng cao quý này!
" Tôi ăn chay vì tôi không muốn đi theo con đường Tiểu Thừa nhỏ hẹp mà muốn theo con đường cao siêu “kịch khổ đạo lộ” tự hành hạ mình giống như trong bài kinh “Đạo Lộ”, Tăng Chi 1, Chương 3, XVI. Phẩm Lõa Thể:
Này các Tỷ-kheo, có ba đạo lộ này. Thế nào là ba? Thâm cố đạo lộ, kịch khổ đạo lộ, trung đạo lộ.  …Và này các Tỷ-kheo, thế nào là kịch khổ đạo lộ?
“Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người sống lõa thể, sống phóng túng không theo lễ nghi, liếm tay cho sạch,…không ăn cá, không ăn thịt, không uống rượu nấu, rượu men, không uống nước cháo. Vị ấy chỉ ăn cỏ hoang, ăn lúa tắc, ăn lúa hoang, ăn da vụn, ăn rong nước, ăn bọt tấm, ăn váng gạo, ăn bột vừng, ăn cỏ hay ăn phân bò. Vị ấy ăn trái cây, ăn rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống…” 
Có tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình, thực hiện kịch khổ đạo lộ như vậy tôi mới giác ngộ được như thực: “Khổ Đế” có nghĩa là “đế” thêm vào cho khổ.
" Tôi ăn chay vì Đức Phật đã dạy rõ trong bài kinh Jivaka số 55, Trung Bộ 2 thuộc Pali nguyên thuỷ:
“-- Này Jivaka, những ai nói như sau: "Vì Sa-môn Gotama, họ giết hại các sinh vật. Và Sa-môn Gotama tuy biết thế vẫn dùng các loại thịt được giết vì mình được làm cho mình", những người ấy không nói chính lời của Ta, họ xuyên tạc Ta, không như chân, không như thật.
Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt không được thọ dụng: thấy, nghe và nghi vì mình mà giết. Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp này, thịt không được thọ dụng.
Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt được thọ dụng: không thấy, không nghe và không nghi vì mình mà giết. Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp này, thịt được thọ dụng”.
! Nghiên cứu kỹ đoạn kinh trên cho thấy: ngay đến Đức Phật mà những kẻ ghét ăn mặn, xấu tâm ác miệng còn dám xuyên tạc vu cáo thì họ còn chừa một ai. Tôi ăn chay là thoát được bọn này!
! Chính mấy tay ăn tam tịnh nhục ngày nay vẫn còn hay than thở: “Những ai nói như sau: "Vì chúng tôi, họ giết hại các sinh vật. Và chúng tôi tuy biết thế vẫn dùng các loại thịt được giết vì mình, được làm cho mình", những người ấy không nói chính lời của chúng tôi, họ xuyên tạc chúng tôi, không như chân, không như thật”. Thế mới biết: Lịch sử thường lập lại; thiện ác, chánh tà cũng vậy!
! Tuy ăn chay nhưng tôi vẫn phải áp dụng luật “không thấy, không nghe và không nghi” của kinh Pali. Bởi lẽ dù ăn rau muống, uống nước lã mà không theo luật “tam tịnh nhục” thì hằng ngày tôi đã sát sanh vô số vô lượng chúng sanh không thấy, không nghe trong các món rau cỏ và nước uống của tôi
(Mấy người ăn chay chính thống Đại Thừa không biết áp dụng luật trí tuệ này, vì bài kinh Jivaka và những đoạn kinh giải thích cách ăn tam tịnh nhục đã bị ai đó “quên” kết tập trong tạng A-hàm lưu truyền ở phương Bắc, và nguyên cả tạng gốc Sanskrit cũng bị “quên” luôn. Chính từ đây mới có cụm từ “đồ tể ăn chay” là vì vậy).
! Thế nhưng, dù theo “tam tịnh nhục” nhưng chỉ được ăn mỗi ngày một bữa, điều này khó quá, tôi không kham nổi. Hoặc một ngày một bữa mang bát đi xin cơm chay lại càng “kịch khổ đạo lộ” tự hành hạ mình hơn nữa.
Vì thế tôi theo con đường trung đạo của tổ sư Bà-la-môn Long Xà, “không thường cũng không đoạn”, có nghĩa là mình không nên ăn thường xuyên bất kể giờ giấc sáng-trưa-chiều-tối và cũng không nên ăn gián đoạn một ngày một bữa.
Tránh hai cực đoan này, mình cứ vắt chéo chân ngồi yên trong chùa, ăn chay ngày ba, bốn, năm hoặc sáu, bảy bữa là tinh thần của Trung quán luận.
Tóm lại, tôi ăn chay vì tôi không thể từ bỏ các tổ sư gốc Bà-la-môn và nghiệp rau cỏ của mình! Dân gian có câu “học ăn, học nói, học gói, học mở”, những ai chưa biết cách học ăn cho đúng thì đừng nói láo, nói bậy! Hãy biết “gói” các thứ đó lại và học mở đúng chánh Kinh mà đọc, kẻo con cháu đời sau hiểu ra, chúng cười cho vào mặt thì khổ.
Nam Mô Thường Tinh Tấn Gặm Rau Cỏ Bồ-tát Ma Ha Tát!
Tái bút:  Nhưng này, đệ tử Long Xà ăn chay vì như thế, còn những kẻ Tiểu Thừa ăn “tam tịnh nhục” vì điều gì? Chẳng lẽ, đến tận bây giờ, các hậu duệ của tướng quân Sīha trứ danh vẫn còn sợ các Niganthā ở Vesālī nên im lặng?
Hừ!

DẠI THỪA KINH


DẪN: Thì ra Đức Phật Thích Ca trong kinh nguyên thủy NIKAYA có nói đến các kinh văn Đại Thừa và các 'bồ-tát' thọ trì các kinh ấy. Mời đọc đoạn đối thoại dưới đây sẽ rõ...

Tiểu Thiên: _ Này dại nhân, ngay trong kinh điển nguyên thủy Nikaya, Đức Thế Tôn cũng có lưu ý giới thiệu về các kinh văn xuất hiện sau này, như kinh Niệu Pháp Điên Hoa, kinh Bịa Tạng Vương Bồ Tát, kinh Hoa Nghi... nữa đấy!
Dại Nhân: _ Có thế chứ. Tám vạn bốn ngàn pháp môn kia mà. Thời nào phải có kinh đó.
Tiểu Thiên: _ Và Ngài còn tiên tri chính xác rằng có một số chúng sanh căn duyên đặc biệt mới tin và thọ trì được những kinh điển như vậy.
Dại Nhân: _ Pháp nhĩ như thị. Trình độ nào phải có pháp đó. Hàng đại căn, đại tuệ phải có riêng pháp thượng căn thượng trí, không thể lẫn lộn được. À, mà Đức Phật dạy như thế nào?
Tiểu Thiên: _ Ngài dạy rằng: “Lại nữa, này các Tỷ-kheo, sẽ có những Tỷ-kheo trong tương lai thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập. Do thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, khi họ thuyết về Thắng pháp hay về Quảng thuyết (Trí giải luận), họ rơi vào hắc pháp, không có thể giác ngộ rõ ràng…
đối với các kinh tạng do Như Lai tuyên thuyết, thâm sâu, ý nghĩa sâu kín, siêu thế, liên hệ đến không, khi các kinh ấy được thuyết giảng, họ không có nghe, họ không có lắng tai, họ không an trú tâm liễu giải, họ không nghĩ rằng các kinh ấy cần phải học tập, cần phải học thuộc lòng.
Còn những kinh điển do các thi sĩ làm, những bài thi, với những chữ văn hoa, với những câu văn hoa, thuộc ngoại điển do các đệ tử thuyết, trong khi các kinh ấy được thuyết giảng, họ sẽ lắng nghe, họ sẽ lóng tai, họ an trú tâm liễu giải. Các pháp ấy, họ sẽ nghĩ cần phải học tập, cần phải học thuộc lòng.
Này các Tỷ-kheo, đây là do Pháp ô nhiễm, nên Luật ô nhiễm; do Luật ô nhiễm, nên Pháp ô nhiễm. Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi thứ tư… thứ năm về tương lai, nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai, các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, các Thầy cần phải tinh tấn để đoạn tận sợ hãi ấy” (Kinh Tăng Chi 2, Chương 5, trang 480).
Dại Nhân: _ Ông đúng là lão trời con oan gia, chỉ thích “vạch lá tìm sâu”, “bới lông tìm vết”.
Tiểu Thiên: _ Có như vậy mới vất bỏ được những “con sâu làm rầu nồi canh”, mới ném đi những con trùng trong lông sư tử và tẩy sạch được những vết nhơ cho đạo pháp.
TIỂU PHẠM THIÊN

TIN ĐỒN THỨ THIỆT HAY DĨ DƯỢC TRỊ ĐỘC

Tại chợ cầu Bà Lãnh, mấy chị em bán hàng đang ngồi tám chuyện với nhau. Cô Ba bán nước mía “chát” trước:
_ Dạo này hết tin đồn bà thần này chảy nước mắt lại đến ông thánh kia chảy máu mũi. Mọi người bỏ cả làm ăn, đua nhau đi coi. Bọn mình bị ế nhệ.
Bà Năm bánh lọt trề môi:
_ Nghe những tin đồn kiểu đó tui phán luôn: “Thì đã sao? Tui còn khiến cho các tượng đó hết khóc, ngưng chảy máu nữa kia”.
Cả đám nhao nhao:
_ Mèn đéc, bà Năm có thần thông hả?
_ Ừa! Thần thông cải hoá. Tui hô rằng tại mấy ông, mấy bà ở chỗ đó làm chuyện bậy bạ, xấu xa tàn ác, nhưng khéo che đậy, không ai hay biết, chỉ có thần thánh tại chỗ biết được nên các ngài mới buồn rầu khóc than, chảy máu nhiều như thế. Các nơi khác thờ cúng đàng hoàng, có như vậy đâu?
Chị Hai bán chè cười khúc khích:
_ Hèn chi, chỗ bà Năm hổng bao giờ có tin đồn thất thiệt. Bà cứ phang kiểu đó còn ai dám để mấy tượng thần chảy máu, chảy nước mắt.
Cô Hoa tạp hoá xen vô:
_ Thằng cháu tui ở nước ngoài dìa, nghe mấy chuyện đó nó phán luôn “Xưa rồi Diễm!”. Nó nói, ở nước ngoài chỗ nào có thần khóc, tượng chảy máu là người ta cử mấy ông khoa học tới đó liền. Họ lấy mẫu phân tích, phân tiếc gì á. Mấy ổng hô nếu thực sự là phép lạ thì nó phải là những chất không có ở trên đời, còn nếu là mấy chất bán đầy ngoài chợ thì đó là bịa đặt. Tính ra cứ một trăm vụ hết chín mươi chín vụ trật lất. Chỗ nào có tin đồn thất thiệt, mấy ông ở đó bị phạt chết luôn. Riết rồi hổng ai dám tung tin đồn bậy bạ.
Bà Năm đắc ý:
_ Xứ mình cũng nên làm công khai như thế. Chỗ nào bị người xấu vu tin đồn thất thiệt gây rối loạn xã hội, chính mấy vị nơi đó phải lên tiếng đính chính trước để tránh bị phạt.
Bà Bảy bún riêu oang oang:
_ Cần gì tới nước ngoài, tới khoa học. Tui cũng có thần thông chứ bộ. Mới vừa rồi, chỗ tui người ta đồn cây me làng bên chảy nước thần chữa bệnh. Tui “ếm” luôn: tui uống rồi, mới vài ngụm đã bị Tào Tháo rượt, chạy té re. Nước thánh, nước tướng kiểu gì mất vệ sinh thấy ớn, thua Tào Tháo là phải.
Cô Ba nước mía “chat” tiếp:
_ Tháng rồi, quê tui, người ta còn truyền nhau mấy tấm hình có hào quang sáng chói nữa chớ!
Cháu Hương phụ bán hàng cho cô Hoa chống nạnh:
_ Cháu thấy rồi. Hào quang trên trời, vơ làm của riêng mình, lãng nhách hông? Mấy bà muốn, cứ ở tại nhà, cháu tới chụp hình cho coi, hào quang trên đầu chói sáng.
Bà Tám lúc này mới lên tiếng:
_ Ngày xưa các Thánh nhân tu hành trên núi cao, giữ giới hạnh thanh tịnh, tiếng lành đồn xa, không cần tung tin đồn câu khách, người ta vẫn tìm đến đảnh lễ học đạo ào ào. Còn bi giờ mấy chỗ tu hành chẳng ra chi, nhưng muốn cầu lợi, nên người ta mới dựng mấy màn giật gân để câu khách. Tui hổng có tha tâm thông nhưng rành họ sáu câu.
Bà Năm tổng kết “hội nghị”:
_ Mấy kẻ xấu tung tin đồn thất thiệt nhằm trục lợi, thì mình tung “tin đồn thứ thiệt” để trục họ. Vỏ quýt dầy, móng tay nhọn, bà con hén!
Cả đám hoan hô, ai nấy cười to tít mắt cứ như được thần linh vừa cho trúng mánh.
THÍCH NGHE PHÁP

TRÍ TUỆ HAY CHÍ TỆ?


Gái Út ngồi xếp bằng, ê a tụng lớn:
_ Bồ tát Quán tự tại hành sâu Bát nhã ba la mật… Này ông con Xá-lợi, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc cũng là không, không cũng là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như thế… nên không có Khổ - Tập - Diệt - Đạo… Úi da! Sao chị Hai kí đầu em đau quá dzậy? Hu… hu… hu…
_ Ủa, em vừa nói thọ là không; không cũng là thọ mà? “Tánh nó không” sao còn biết đau?
_ Pháp cao siêu hiểu sao được?
_ Tin tưởng những điều phi lý, không thực tế rồi cho nó cao siêu mầu nhiệm không hiểu nổi, xin lỗi em, mấy kẻ ngu cũng nói được như thế.
Gấp quyển kinh Tương Ưng đang đọc, chị Hai chắp tay nhìn trời lẩm bẩm:
_ Nam Mô Ứng Cúng Chánh Biến Tri! Quả là ngài tiên tri không sai: “Khi nào các người ngu có mặt, chính họ làm cho diệu pháp biến mất” (*)
CHỊ HAI TRÍ
____________________
(*) Tương Ưng 2, trang 386.

MẠT PHÁP THẬT! PHẬT PHÁP THẬT!


Bà Năm Trầu đang lâm râm tụng niệm:
_"Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không… vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo; vô trí cùng vô đắc…”
Bé Bi ngồi gần đó liền nhỏm dậy:
_ Bà Năm ơi, mấy con bò, heo, dê, ngựa chúng có biết Khổ - Tập - Diệt - Đạo không, hả bà?
Bà Năm Trầu trợn tròn mắt:
_ Trời đất, thú vật ngu si làm sao biết Phật Pháp!
_ Vậy chúng cũng “vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo; vô trí cùng vô đắc”, hở bà?
Bà Năm chột dạ, quát lơ cho qua chuyện:
_ Thú vật khác, Bồ-tát Quán Tự Tại khác. “Vô” hổng phải là “không”. “Không” chẳng phải là “vô”.
_ Vậy là nhị thừa phân biệt rồi! Kinh Kim Cang Đại Thừa dạy phải vô phân biệt ta, người, chúng sanh, thọ giả. Kinh Pháp Hoa phán chúng sanh đồng Phật tánh”. Kinh Hoa Nghiêm truyền không phân biệt pháp theo bất cứ loại tướng nào kia mờ?
Bà Năm Trầu im re, hết gãi đầu lại gãi tai. Bé Bi tiu nghỉu thở dài:
_ Giá Bồ-tát Quán Tự Tại còn sống, trả lời cho cháu biết, bà hén!
Kể từ dạo đó, bé Bi không còn nghe bà Năm Trầu tụng Bát-nhã-tâm-kinh-hoàng nữa, khiến cho bé Bi càng thêm phân vân thắc mắc. Gặp vị thầy nào nó cũng hỏi tại sao, nhưng tất cả đều thực hành hạnh “bất lập văn tự”, mọi vọng đều buông, vô suy vô nghĩ, có mắt như mù, có tai như điếc, có miệng như câm. Riết rồi bé Bi cứ một mình vừa đi vừa lẩm bẩm: “Mạt pháp thật! Mạt pháp thật!” 
Cho đến một hôm, bé Bi nghe bà Năm Trầu oang oang tụng niệm“Con giả can ghê tởm, Có tru sủa thế nào, Làm sao sánh bằng được, Tiếng rống con sư tử [1].
Chó rừng nhìn tự thân, Tự nghĩ là sư tử. Nó sủa tiếng chó rừng, Loại chó rừng đê tiện. Chó rừng sủa là ai? Ai rống tiếng sư tử [2].
Kẻ ngu si miệt thị, Giáo pháp bậc La Hán, Bậc Thánh, bậc chánh mạng. Chính do ác kiến này, Như quả loại cây lau, Mang quả tự hoại diệt [3]
Vừa nghe xong, bé Bi hoát nhiên tỉnh ngộ, reo vui: “Phật pháp thật! Phật pháp thật!”.
Bất giác bé Bi chạy đến ôm chầm lấy bà Năm. Cả hai bà cháu đều mừng vui khôn xiết, nhưng nước mắt của họ lại cứ lưng tròng. Tại sao thế nhỉ?
Tội nghiệp quá, phía sau họ còn biết bao người đang lầm lạc!
THÍCH THỪA TỰ PHÁP
_______________________

[1] Kinh “Các ngoại đạo sư” (S.i,65).
[2] Kinh 
PàtikaTrường Bộ 2, trang 301-302.
[3] Pháp Cú 164.

TĂNG BẢO HAY TĂNG XẠO?

Anh Sáu thợ điện nói với bác Năm tổ trưởng:
_ Thời nay không có gì dễ bằng trở thành nhà sư. Chỉ cần cạo tóc đắp y, vừa làm tân tăng vừa làm tân lang sống đời vợ chồng vô tư thoải mái.
Bác Năm:
_ Họ là tu sĩ hồi nào?
_ Thì vị nào cũng đầu tròn áo vuông, cũng xưng danh đại đức, thượng tọa thiền sư tự tại cười đùa vang trời. Nhiều vị còn thích áo gấm hoa, rành rẽ hàng hiệu, giỏi ca nhạc và múa nhảy nữa chứ.
_ Chiếc áo không làm nên thầy tu. Thế giới cũng có bọn đầu trọc hung ác cực kỳ nữa đấy. Đức Phật đã dạy: “Do phá hoại bảy pháp, này các Tỷ-kheo, thành vị Tỷ-kheo. Thế nào là bảy? Phá hoại kiến có thân, phá hoại nghi, phá hoại giới cấm thủ, phá hoại tham, phá hoại sân, phá hoại si, phá hoại mạn. Do phá hoại bảy pháp, này các Tỷ-kheo, thành vị Tỷ-kheo” (1). Ngài còn dạy tiếp: “Này các Tỷ-kheo, đây được xem là khóc than trong giới luật bậc Thánh, tức là ca vịnh. Này các Tỷ-kheo, đây được xem là điên loạn trong giới luật bậc Thánh, tức là múa nhảy. Này các Tỷ-kheo, đây được xem là trẻ con trong giới luật bậc Thánh, tức là cười quá đáng để lộ cả răng. Do luật này, này các Tỷ-kheo, hãy phá cây cầu đi đến hát. Hãy phá cây cầu đi đến múa nhảy. Thật là vừa đủ nếu các Thầy được hoan hỷ đúng pháp, mỉm cười để tỏ là các Thầy được hoan hỷ” (2)
_ Hóa ra thành vị Tỳ-kheo chân chính thực khó vô cùng.
_ Đúng vậy, thế nên mới gọi là Tăng Bảo. Còn mấy ông như anh nói mới chỉ là “tăng xạo” hay “tăng giảo” mà thôi.
TĂNG THỪA TỰ PHÁP
_____________________
(1) Bài kinh “Sự Phá Hoại”, Tăng chi 3, Chương 7, Phẩm Các Kinh Không Nhiếp.
(2) Bài kinh “Khóc Than”, Tăng chi 1, Chương 3, Phẩm Chánh Giác.

VÔ UÝ HAY VÔ QUÝ???


Một nhóm huynh trưởng trong GĐPT Tám Chánh Đạo đang ngồi thảo luận với nhau giữa sân chùa. Huynh Chánh Tư Duy nêu vấn đề:

_ Thưa các huynh, trong kinh văn Phật giáo, có hai từ là “vô úy” và “vô quý”. Hai từ này đồng nghĩa hay khác nghĩa nhau?

Có ý kiến phát biểu liền:

_ Hai từ “vô úy” và “vô quý” giống nhau, cùng có nghĩa là “không sợ hãi”.

Huynh Chánh Kiến lắc đầu:

Nhưng ý nghĩa của chúng hoàn toàn khác nhau. Chúng ta cần phải phân biệt rõ để không rơi vào bẫy của kẻ hiểm ác.

Người kế bên:

_ Khác nhau như thế nào, vấn đề quan trọng ra sao mong huynh giải thích rõ hơn.

Huynh Chánh Kiến từ tốn:

_ Theo tôi biết, “úy” là sợ hãi những điều không đáng sợ hãi và vì vậy “vô úy” là không sợ hãi những điều không đáng sợ hãi. Ví dụ trong bài kinh “Người Có Lòng Tin”, Tăng Chi 10 pháp, Đức Thế Tôn dạy các Tỳ-kheo nên “vô úy thuyết pháp cho hội chúng”, có nghĩa là trong khi thuyết pháp cho hội chúng không nên bị sợ hãi làm cho bối rối.

Huynh Chánh Tín tán đồng:

_ Đúng vậy, đây là điều sợ hãi không nên có, không đáng sợ hãi.

Huynh Chánh Kiến tiếp tục:

_ Hoặc trong bài kinh “Nguồn Nước Công Đức”, Tăng Chi 8 pháp, Đức Thế Tôn khuyến khích các cư sĩ thực hành không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu tức là bố thí không sợ hãi, bố thí không hận thù, bố thí không làm hại cho các chúng sanh khác. Nhờ vậy những người này cũng sẽ nhận được sự không sợ hãi, không hận thù, không hại.

Huynh Chánh Giới hào hứng:

_  À tôi hiểu rồi, “bố thí không sợ hãi” ở đây được hiểu là “vô úy thí”, có nghĩa là mình không sát sanh, không trộm cướp tức là mình đã bố thí cho người khác sự không sợ hãi vì sát sanh, trộm cướp.

Huynh Đại Tín nhíu mày, nghi vấn:

_ Trong Đại thừa cũng có nói đến “vô úy thí”. Có gì sai trái?

Huynh Chánh Kiến ôn tồn:

_ Vấn đề không đơn giản như huynh nghĩ. Vì các luận sư Bà-la-môn Đại thừa và những ai tin họ không phân biệt rõ ràng có những sợ hãi không đáng sợ hãi, tức “úy”; và có những sợ hãi đáng phải sợ hãi…

Huynh Chánh Hạnh nhanh miệng:

_ Huynh muốn nói đến pháp “Quý”, một trong hai thiện pháp “Tàm Quý” thường được Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni nhắc đến?

_ Đúng vậy. “Tàm” là xấu hổ, “quý” cũng là sợ hãi. Nhưng ở đây là xấu hổ và sợ hãi trước những việc đáng xấu hổ và sợ hãi. Như xấu hổ và sợ hãi trước thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác; xấu hổ và sợ hãi trước các việc làm ác-bất thiện.

Huynh Chánh Giới lại tham gia:

_ Nhờ biết xấu hổ và sợ hãi đúng pháp mà một người không làm ác, không nói ác, không nghĩ ác, không phạm tội lỗi.

_ Đúng vậy. Ngược lại trước những cám dỗ hoặc hận thù, nếu một người không biết xấu hổ điều đáng xấu hổ (vô tàm) và không biết sợ hãi điều đáng sợ hãi (vô quý), họ sẽ dễ phạm tội hơn hoặc chây lì tái phạm tội nhiều lần.

_ À, tôi đã hiểu rồi. Nếu mọi người không phân biệt rõ ràng giữa “vô úy” và “vô quý” để rồi sợ hãi những điều không đáng sợ hãi, hoặc không biết sợ hãi những điều đáng sợ hãi, dẫn đến gây biết bao việc hại mình, hại người, hại cả hai, hại toàn thế giới.

Lúc này Chánh Tả là em Chánh Ngữ cũng góp ý:

_ Em đề nghị chúng ta nên viết hoa chữ “Quý” vì Quý là một danh từ riêng, nó cũng là một học pháp, một thiện pháp quan trọng; và để dễ phân biệt hơn giữa “vô Qúy” và “vô úy”.

Cả nhóm im lặng như tán đồng. Huynh Chánh Mạng lúc này mới lên tiếng:

_ Trong tôn giáo, sợ hãi những điều không đáng sợ hãi thường dẫn đến mê tín, nhưng không biết sợ hãi trước những điều đáng sợ hãi lại dẫn đến cuồng tín. Cả hai đều nguy hại cho mình và cho mọi người!

Huynh Chánh Nghiệp cũng tham gia:

Còn trong sanh tử luân hồi, những tà kiến này sẽ dẫn đến tái sanh vào cõi dữ đọa xứ. Tôi nhớ rõ trong Pháp Cú, kệ số 317, có các câu này: “Không đáng sợ lại sợ. Đáng sợ lại thấy không. Do chấp nhận tà kiến. Chúng sanh đi ác thú”. Các huynh quan sát kỹ đời sống tập tính của các ác thú, sẽ thấy đúng như vậy.

Huynh Chánh Niệm sơ kết hội thảo:

_ Và đây chính là điều mà các luận sư Bà-la-môn gián điệp mong muốn nơi những đệ tử Phật. Cho nên họ mới lập lờ đánh lận con đen, ra sức tuyên truyền cho “vô úy thí”, khiến những kẻ ngây thơ tin theo không biết phân biệt rõ ràng, dẫn đến không sợ hãi một cách bừa bãi, bất kể là chuyện gì. Trong Đại thừa có biết bao nhiêu những điển hình để chứng minh cho điều tôi vừa nói.

Cả nhóm đều hồ hởi đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu vì đã nhận thức được một điều rất quan trọng.


Thư Ký Nhóm

____________


Pháp Trích Lục

Kinh “Sợ Hãi Và Vô Úy”, số 204, Tăng Chi 10 Pháp 

1. Thành tựu mười pháp, này các Tỷ-kheo, người nữ cư sĩ sống ở gia đình không có vô úy. Thế nào là mười?

Sát sanh... lấy của không cho... tà hạnh trong các dục... nói láo... nói hai lưỡi... nói lời thô ác... nói lời phù phiếm... tham ái... sân tâm... tà kiến...

Thành tựu mười pháp, này các Tỷ-kheo, người nữ cư sĩ sống ở gia đình không có vô úy.

2. Thành tựu mười pháp này, này các Tỷ-kheo, người nữ cư sĩ sống ở gia đình không có sợ hãi.

Ðoạn tận sát sanh... đoạn tận lấy của không cho... đoạn tận tà hạnh trong các dục... đoạn tận nói láo... đoạn tận nói hai lưỡi... đoạn tận nói lời thô ác... đoạn tận nói lời phù phiếm... đoạn tận tham ái... đoạn tận sân tâm... chánh kiến...

Thành tựu mười pháp này, này các Tỷ-kheo, người nữ cư sĩ sống ở gia đình không có sợ hãi.

Thừa tự Pháp trích lục:

Bài kinh trên là điển hình cho thấy có hai sự sợ hãi và không sợ hãi khác nhau cần phải phân biệt rõ.

Với cụm từ “vô úy” ở trên, từ “úy” có nghĩa là sợ hãi những điều không đáng sợ hãi, và “vô úy” có nghĩa là không sợ hãi những điều không đáng sợ hãi. “Không có vô úy” có nghĩa là không có không sợ hãi (hay sợ hãi) những điều không đáng sợ hãi.

Ví dụ vì người nữ cư sĩ không biết sợ hãi những điều đáng sợ hãi nên mới sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu… chính vì thế người này mới gặt quả báo “không có vô úy”, có nghĩa là sợ hãi những điều không đáng sợ hãi do phá giới, phá hạnh mang lại.

Ngược lại người nữ cư sĩ biết sợ hãi những điều đáng sợ hãi; nên người này mới không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu… Nhờ vậy người nữ cư sĩ này mới đạt được sự không sợ hãi do giữ giới, giữ hạnh mang lại.

Kinh Pháp Cú đã khuyến cáo:

"Không đáng sợ, lại sợ,
Đáng sợ, lại thấy không,
Do chấp nhận tà kiến.
Chúng sanh đi ác thú.” (PC 317)

THÍCH CHÁNH LÝ