Thứ Hai, 23 tháng 9, 2019

Mô Phật, tin được không?


Câu hỏi cho kinh Đại Duyên, Trường Bộ

Qúy vị nào rành tam tạng Đại giáo, hoặc luận Vi Diệu Pháp xem trong giáo lý của mình thọ trì có chỗ nào giúp giải thích các câu hỏi 'không có Câu Giải Thoát nào cao hơn' này

OAN BA ĐỜI PHẬT


Dưới ánh chiều tà, sau khi thiền tịnh độc cư xong, sư Nhỏ từ chỗ ngồi đứng dậy đến bên sư Lớn, chắp tay hỏi:
_ Thưa huynh, câu "Y kinh diễn nghĩa tam thế Phật oan, ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết” nghĩa là gì ạ?

Sư Lớn ngước mặt nhìn trời, cười khẩy:
_ Cứ bám theo kinh mà nói thì không đúng ý Phật. Rời kinh một chữ là ma đang thuyết pháp. Chân lý ở giữa các dòng kinh.
Sư Nhỏ thở dài:
_ Tội nghiệp. Đại huynh đã bị “tẩu hỏa nhập ma”, trúng kế hỏa mù, nhập đường ma đạo mà vẫn không hay biết.
Sư Lớn đỏ mặt tía tai, dứ thẳng hạt chuỗi to bằng trái chanh trước mặt sư Tiểu:
_ Tiểu huynh ngã mạn vừa chứ, tu pháp thấp mà đòi chấp pháp cao, không biết lượng sức mình.
Sư Nhỏ vẫn từ tốn:
_ Đại huynh phải nhớ rõ: trái với chánh pháp là tà pháp, ngược với chánh đạo là tà đạo, và muốn phá chánh kinh thì phải có tà kinh. Chỉ có ma vương mới không muốn phân biệt trắng đen, thiện ác, kinh giả, kinh thật để kéo con Phật xa rời những lời dạy đích thực của Ngài. Chân lý không nằm giữa các câu kinh mà nằm trong Bốn Thánh Đế. Đương nhiên Bốn Chân lý của Bậc Thánh không thể nằm trong tà kinh mà chỉ có trong chánh kinh Nguyên Thủy. Vì vậy, nói cho đúng phải là “Y kinh gián điệp, oan ba đời Phật. Ly kinh Nikaya nửa chữ, tức cùng ma nói”.
Sư Lớn giật mình, hỏi dịu giọng:
_ Còn tạng Luận thì sao?
_ Y luận mà lìa Chánh kinh lại càng điên hơn nữa. Còn ai luận hay hơn Bậc Thiện Thệ Thế Gian Giải? Chẳng lẽ các luận sư theo chân Đấng Điều Ngự Trượng Phu lại giỏi hơn Vị Thầy Trời Người?
Đại sư huynh không nói năng gì, chỉ cúi mình cung tay vái chào vị Thanh Văn tiểu đệ. Từ đó trong chùa không còn tiếng hơn thua tranh cãi.
Sư Huynh

Cách đối trị "ăn cắp pháp"


Thời Phật các ngoại đạo đã biết 'ăn cắp pháp' của Phật để dạy cho đồ chúng. Họ tệ hại ở chỗ miệng ra rả chống Phật, nhưng lén nghe Pháp, học Pháp để loè hội chúng rằng Phật biết gì, họ biết hơn cả Phật; Phật dạy gì, họ dạy hơn cả Phật vv...

Bài kinh Pháp Môn trong Tương Ưng Bộ ghi lại lời Phật dạy các Tỳ-kheo cách phản biện các ngoại đạo sư để chỉ rõ lối 'ăn cắp pháp' của họ.

Ngày nay cũng thế, nhiều người mang danh 'con Phật' nhưng không thọ trì đúng Kinh - Luật của Phật; lại tin theo ác ma giả Phật, để rồi trở thành kẻ phản đồ mà không biết. Họ hãy tự xét mình qua các câu hỏi về Pháp để biết họ có thực sự là đệ tử Phật, thừa tự Chánh Pháp của Phật không?

Lăng nghiêm đa tội, vô phước


Tin theo tam tạng Đại Thừa China là đa tội, vô phước vì Phật không nói các kinh luật đại thừa này, nhưng nói Phật dạy khiến kẻ khác tin theo. Thế nhưng im lặng không nêu rõ chánh - tà, chân - ngụy để ác ma lộng hành phá hoại Đạo Pháp cũng vô phước đa tội mà thôi.

(Theo ghi nhận có vị dịch tà kinh Đại Thừa đã phải nằm liệt giường suốt gần 10 năm trời. Thật không vui khi nói điều này, nhưng đó là lời cảnh giác cho những ai nhắm mắt tin càn theo giả sư phá Pháp)

Xin chia phước, hồi hướng công đức đến các đạo hữu đã kiên trì cùng Chánh Đạo chia sẻ những bài viết nêu rõ Thánh Pháp Thánh Luật. Chắc chắn thiện nghiệp của các vị sẽ được quả phước to lớn được dòng Pháp đẩy lên về phía giải thoát.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

7 vị Phật hay 62 ức chư Phật?


CÁC BÀI KINH VÀ LUẬT NGUYÊN THUỶ TRƯỚC SAU CHỈ CÓ 6 VỊ PHẬT QUÁ KHỨ VÀ PHẬT THÍCH CA HIỆN TẠI. TỔNG CỘNG CHỈ CÓ BẢY

Tạng Luật – Phân Tích Giới Tỳ-Khưu, Tập Một, Chương Verañja, Đoạn [7]
Kinh Đại Bổn, DN 14
Kinh A-sá-nang-chi, DN 32
Trích kinh Vua Các Loài Rắn, Tăng Chi tập 1, Chương 4, VII. Phẩm Nghiệp Công Đức:

"...Ðức Phật là vô lượng. Pháp là vô lượng. Chúng Tăng là vô lượng. Có lượng là các loài bò sát, các loài rắn, các con bò cạp, các con một trăm chân, các loại nhện giăng tơ, các con thằn lằn và các loài chuột. Ta đã làm sự hộ trì. Ta đã làm sự che chở, mong rằng các loài hữu tình sẽ bỏ đi. Ta đảnh lễ đức Thế Tôn. Ta đảnh lễ BẢY VỊ CHÁNH ĐẲNG GIÁC."

Ý KIẾN CON PHẬT

Trước sau chỉ có Bảy Vị Phật Chánh Đẳng Giác, chính vì thế khi nói "Ðức Phật là vô lượng” có nghĩa là Chư Phật có vô lượng công hạnh, vô lượng phước báu, vô lượng trí huệ. Người trần phàm phu không thể ước lượng.

“Pháp là vô lượng” có nghĩa là các Pháp của Chư Phật có vô lượng giá trị cứu khổ, vô lượng ý nghĩa giải thoát, vô lượng công đức thế gian. Pháp trần thế gian không thể so sánh.

“Chúng Tăng là vô lượng” nghĩa là Tăng Bảo thừa tự vô lượng phước báo từ Phật Bảo, Pháp Bảo với vô lượng ân đức.

Chính vì thế, đối với người con Phật, Chánh Tam Bảo là hy hữu nhất trong những hy hữu của thế gian. Riêng Đấng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn thì từ vô thủy vô chung đến nay trước sau chỉ có Bảy Vị, duy nhất Bảy Vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác mà thôi, không hơn không kém. Cho nên mới nói “Khó thay sự chiêm ngưỡng. Tôn nhan bậc Như Lai. Trải nhiều nhiều trăm kiếp, May lắm được một lần”.

Nói Chánh Tam Bảo vì có cả ‘ngụy tam bảo’ do ác ma bịa ra và đã có không ít người ngộ nhận. Tin theo các tăng giả, pháp giả, Bụt giả này đã không được giải thoát thì chớ, trái lại còn gieo duyên đọa xứ khổ đau vì tà kiến. Bởi Đức Thế Tôn đã nhiều lần tuyên bố: “Kẻ ôm tà kiến chỉ có hai sanh thú: địa ngục hoặc xúc sanh” (S.iv,306+308; MN 12, MN 57). Chính vì thế Chánh Kiến đi đầu trong Tám Chánh Đạo là vì vậy.

Kính tin Bảy Vị Phật Chánh Đẳng Giác duy nhất là chánh tín, chánh kiến, chánh đạo. Tin theo ngàn vạn Bụt giả, pháp giả, tăng giả là tà tín, tà kiến, tà đạo. Mỗi người phải nhận thức rõ điều quan trọng này để tự cứu mình và cứu những người thân của mình.

PHẬ̣T HỌC

Câu hỏi cho Kinh Niệm Xứ, số 10, Trung Bộ


LĂNG NGHIÊM đại lừa ngụy biện xảo trá


Câu hỏi cho các thiền sư, thiền sinh đang hành Bốn Niệm Xứ


OAN THỊ MẦU HAY OAN MIGALANDIKA?

Hai đạo sĩ cùng bị thác sanh vào địa ngục, liền khấu kiện Diêm Vương. Cả hai than khóc, tấu nỗi oan khiên:
_ Thưa Diêm Vương, hẳn là có sự nhầm lẫn. Cả đời chúng tôi không làm ác, chí tâm hành đạo, thế nhưng vì sao chết lại bị đọa vào địa ngục thế này?
_ Các ông không làm ác như thế nào? Diêm Vương hỏi.
Đạo sĩ thứ nhất mau miệng:
_ Dạ thưa, tôi luôn tâm niệm và giảng dạy mọi người phải biết xem thường pháp thấp của Tiểu Thừa, không chấp vào nhị biên, phải theo đại giáo cao siêu để thấy “Phiền não tức Bồ-đề”
Ngay lập tức Diêm Vương đập bàn, quát:
_ Thì giờ đây ngươi được vào địa ngục đầy phiền não để tha hồ hưởng thọ “Bồ-đề” của mình, còn đòi hỏi gì nữa?
Diêm Vương hất hàm nhìn đạo sĩ thứ hai. Vị này rụt rè, sợ hãi:
_ Dạ, còn con chỉ cả đời sách tấn, khuyên ngăn mọi người đừng theo pháp của hàng Thanh Văn hạ căn thiểu trí, mà phải tu theo Bồ-tát đại hạnh, lấy “Sanh tử là Niết Bàn”
Diêm Vương lại gầm lên:
_ Chính nơi đây chứ còn đâu nữa, mỗi phút giây trong địa ngục này, ngươi đều được chết đi sống lại nhiều lần để tha hồ chứng nghiệm “Niết Bàn” của mình. Nghiệp báo này do chính các ngươi tạo ra, chứ còn ai vào đây?
Cả hai đạo sĩ vẫn còn ấm ức:
_ Nhưng thưa ngài, chúng tôi chỉ y kinh mà nói.
_ Kinh gì?
_ Dạ, kinh Đại Thừa.
_ Xuất hiện lúc nào?
_ Sau khi Phật nhập diệt hàng trăm năm.
_ Do ai kết tập và xiển dương?
_ Thưa, do các tổ sư, luận sư gốc Bà-la-môn.
Nghe đến đây Diêm Vương nhỏm hẳn người dậy:
_ Đó, đó chính là chỗ đáng tội của các ngươi, cứ nghe càn tin bậy để rồi ôm giữ tà kiến.
Hai oan gia cố biện bạch:
_ Nhưng các vị đại luận sư của chúng tôi, ai nấy cũng đều quy y Phật, cạo đầu đắp y, các kinh văn do họ kết tập đều ghi là Phật thuyết.
_ Những kẻ gián điệp muốn phá Phật pháp không làm nổi việc như thế hay sao? Chẳng lẽ họ lại tự vỗ ngực xưng tên rồi bảo các ông quay lại chê bai kinh thật, pháp thật để cho bị tẩy chay à? Họ chỉ có một cách duy nhất là ngụy trá làm gián điệp, giả danh lời Phật mới dụ được những kẻ cả tin như các ông, mới xúi được các ông chống báng khinh thường chính nguồn gốc của mình, rõ chưa? Ai đã từng khuyến cáo các ông chớ có tin càn cho dù đó là kinh điển, truyền thống hay thày tổ của mình? (1)
Nói xong, Diêm Vương chỉ tay về hướng một tội nhân đang phải chịu cực hình khủng khiếp, cất tiếng hỏi hai vị oan gia:
_ Các ngươi có biết tội nhân ấy là ai không?
Cả hai đạo sĩ nhìn theo rồi lắc đầu:
_ Thưa không.
Diêm Vương thở phì:
_ Các ngươi đã nghe đến cái tên “Migalaṇḍika” bao giờ chưa?
Hai đạo sĩ càng ngơ ngác hơn nữa:
_ Dạ chưa.
Diêm Vương ngán ngẫm:
_ Đúng là ngây thơ, thiếu trí tuệ như các ngươi nên mới cả tin, mắc bẫy những kẻ gián điệp ngụy trá mà không biết. Migalaṇḍika chính là một sa-môn giả hiệu ngay trong thời Đức Phật, y chui vào hàng ngũ tăng đoàn để thừa cơ hội mỗi ngày giết chết hàng chục vị Tỳ-kheo. Các ngươi không tin hãy mở tạng luật Pātimokkha mà đọc. (2)
Diêm Vương chỉ tay sang một đám đông tội nhân khác, nạt lớn:
_ Bên cạnh Migalaṇḍika còn có rất nhiều các sa-môn, Bà-la-môn khác mang dã tâm phá hoại Chánh Pháp và giờ đây bọn họ đang phải trả giá cho tội ác của mình. Có kẻ bỏ công theo dõi Đức Phật hàng tháng trời để tìm sơ hở sai lầm của Đức Thế Tôn nhằm vu cáo phỉ báng Ngài. Lại còn những kẻ ác tâm khác như Potaliputta, Sonakāyana, Sanjaya, Nigantha NataputtaMagandiyaLohicca, Paccaniikasāta, Vassakāra, BhāradvājaBrahandu v.v... tất cả bọn họ đều biết ngụy trá rằng chính tai họ nghe Phật nói thế này, dạy thế kia để xuyên tạc lời Phật, đánh lừa con Phật, phá hoại Phật Pháp. Các ngươi không tin hãy đọc kỹ kinh Nikaya sẽ rõ. (3).
Thở dài một hơi, Diêm Vương chép miệng ngao ngán:
_ Chánh pháp không đọc, đi đọc tà pháp. Chánh đạo không dạy, đi dạy tà đạo. Đại nhân quân tử không tin, đi tin tiểu nhân nguỵ trá. Tội ấy do ai? Có phải các ngươi đã bị oan như... Thị Mầu không?
Đến đây cả hai tội nhân cúi đầu im lặng. Diêm Vương nghiêm giọng:
_ Như ta đây còn biết, chỉ có “diệt phiền não mới chứng được Bồ-đề của Phật”, phải “đoạn sanh tử mới đắc Niết Bàn của Như Lai”. Chỉ có những kẻ chấp tà kiến, tưởng tri Niết Bàn là Niết Bàn, tưởng tri Bồ-đề là Bồ-đề mới nói như các ngươi. Đức Phật đã nhiều lần tuyên bố, “Kẻ ôm tà kiến chỉ có hai sanh thú: địa ngục hoặc bàng sanh” (4)Vì các ngươi đã mang tà kiến lại còn đi gieo rắc tà kiến cho kẻ khác nên làm bàng sanh cũng không được. Vào địa ngục là đúng, còn oan khuất gì nữa?
Nói xong, Diêm Vương quay sang bọn ngục tốt hét lớn:
_ Bay đâu! Hãy cho hai tà kiến nhân này vào chung ngục hình với các tiền bối của họ để tất cả cùng hưởng thọ “Bồ-đề phiền não” và “Niết-bàn sanh tử” của họ, làm gương cho những kẻ khác, mau lên!
Phán Quan

Không biết, không tu BẢY GIÁC CHI làm sao đạt được MINH và GIẢI THOÁT?


"ĐÂY LÀ ĂN ĐỒ THỐI. ĂN THỊT KHÔNG PHẢI THỐI."


Lời của Đức Phật quá khứ KASSAPA dạy cho Bà La Môn khi họ khen chay chửi mặn, trong bài Kinh AMAGANDHA (Sn 42), Tiểu Bộ tập 1, Kinh Tập – Sutta Nipata, Chương 2 – Tiểu Phẩm

😈"Bà-la-môn:

239. Các bậc Thiện chơn chánh,
Ăn hạt giống cây thuốc,
Ăn đậu đũa, đậu rừng,
Ăn lá, ăn rễ cây,
Ăn trái các dây leo,
Nhận được thật đúng pháp.
Vị ấy không nói láo,
Vì các dục thúc đẩy.

240. Ôi ngài Kassapa,
Ai ăn các món ăn,
Do người khác bố thí,
Khéo làm, khéo chưng dọn,
Trong sạch và thù thắng;
Ăn lúa gạo thơm ngon.
Ai ăn uống như vậy
Là ăn thịt hôi thối.

241. Này bà con Phạm thiên,
Chính Ngài tuyên bố rằng:
Ta không ăn đồ thối,
Ðể nuôi sống thân Ta.
Nhưng Ngài ăn món ăn
Bằng lúa gạo thơm ngon,
Ăn thịt các loài chim,
Nấu ăn thật khéo léo
Ta hỏi Kassapa:
Ý nghĩa sự kiện này,
Ngài định nghĩa thế nào,
Là ăn đồ hôi thối?

Ðức Phật Kassapa:

242. Sát sanh và hành hình,
Ðả thương và bắt trói,
Trộm cắp và nói láo,
Man trá và lừa đảo,
Giả bộ kẻ học thức,
Ði lại với vợ người,
Ðây là đồ ăn thối,
Ăn thịt không phải thối.

243. Ở đời, các hạng người,
Không chế ngự lòng dục,
Ðam mê các vị ngon,
Liên hệ đến bất tịnh,
Theo chủ nghĩa hư vô,
Bất chánh khó hướng dẫn,
Ðây là ăn đồ thối,
Ăn thịt không phải thối.

244. Ai thô bạo, dã man,
Sau lưng nói gièm pha,
Phản bạn không từ bi,
Lại cống cao ngạo mạn,
Tánh không có bố thí,
Không cho ai vật gì,
Ðây là ăn đồ thối,
Ăn thịt không phải thối,

245. Phẫn nộ và kiêu mạn,
Cứng đầu và chống đối
Man trá và tật đố,
Nói vô ích, huênh hoang,
Kiêu mạn và quá mạn,
Thân mật với kẻ ác,
Ðây là ăn đồ thối,
Ăn thịt không phải thối,

246. Ác giới, nợ không trả,
Làm người điểm chỉ viên,
Làm những nghề dối trá,
Ở đây, kẻ giả vờ,
Ở đây người bần tiện,
Những người làm ác nghiệp,
Ðây là ăn đồ thối,
Ăn thịt không phải thối.

247. Ở đời đối hữu tình,
Người không biết kiềm chế,
Lấy cướp sở hữu người,
Chú tâm làm hại người,
Ác giới và tàn nhẫn
Ác ngữ, thiếu lễ độ,
Ðây là ăn đồ thối,
Ăn thịt không phải thối,

248. Hạng tham ô, thù nghịch,
Tìm cách để giết hại,
Luôn luôn hướng về ác,
Sau chết sanh tối tăm,
Chúng sanh ấy rơi vào,
Ðịa ngục đầu xuống trước.
Ðây là ăn đồ thối,
Ăn thịt không phải thối,

249. Không phải do cá thịt,
Cùng các loại nhịn ăn,
Không phải do lõa thể,
Ðầu trọc và bện tóc,
Không do tro trét mình,
Mặc da thú khô cứng,
Không phải do săn sóc,
Nuôi dưỡng lửa tế tự,
Không do nhiều khổ hạnh,
Ðể được chứng bất tử,
Không bùa chú tế tự,
Các tế đàn thời tiết,
Làm con người trong sạch,
Nếu nghi hoặc chưa đoạn.

250. Do sống hộ trì căn,
Với các căn nhiếp phục,
Vững trú trên Chánh pháp,
Thích chân trực, hiền hòa,
Vượt khỏi các tham ái,
Ðoạn tận mọi khổ đâu,
Bậc trí không nhiễm dính,
Ðiều được thấy, được nghe.

251. Nhiều lần, Thế Tôn thuyết,
Ý nghĩa lời dạy này,
Bậc bác học kệ chú,
Thâm hiểu ý nghĩa ấy.
Bậc ẩn sĩ nói lên,
Với những kệ tuyệt diệu,
Bậc không ăn đồ thối,
Ðộc lập, khó hướng dẫn.

252. Nghe xong những lời dạy,
Lời Thế Tôn khéo nói,
Chấm dứt ăn đồ thối,
Ðoạn tận mọi khổ đau,
Vị ấy đảnh lễ Phật,
Với tâm ý nhún nhường,
Thỉnh cầu được cho pháp,
Xuất gia tại nơi đây."

(HT Thích Minh Châu dịch Việt)

Thừa tự Pháp trích lục:
“239. Bà-la-môn đời nay,
Ăn hạt giống cây thuốc,
Ăn rễ cây tăng lực,
Ăn trái cho sung sức,
Ăn món chay giả thịt
Ăn đám cưới, tiệc tùng
Ăn sinh nhật, nhà hàng
Ăn đám ma, đám cúng
Nhận tiền quà mọi lúc.
Vị ấy hơi nói láo,
Vì các dục thúc đẩy.

Pháp hoa đại lừa xúi dại


Các vị đang nghĩ mình là con Phật Thích Ca biết gì về TÁM GIẢI THOÁT và TÁM THẮNG XỨ?


Điạ Tạng bịp lừa

Nếu kinh Địa Tạng China là đúng thì các nước PG Đại Thừa sẽ không bị tại nạn nào, vì có chùa Bắc Tông nào không thờ Địa Tạng, Quan âm, Di lặc, Adiđà...? Cứ nhắm mắt tin điều phi lý giả tạo là mê tín, cuồng tín đúng không?

Các thiền sư, pháp sư, giảng sư, hoà thượng tiến sĩ Phật học giảng cho đồ chúng được nhờ


SÁM HỐI CHÂN KINH


Đại thừa có pháp sám hối cao siêu dành cho đệ tử. Bài dưới đây nêu rõ sự tà vạy của tà pháp, tà giáo


Sám Hối Chân Kinh
Kim Zung Zăng
Nhất Đăng đạo sư đích thực là vị truyền nhân chính thống của võ phái nổi tiếng Tiếu Lâm Tự, vốn là tiền thân của hậu bối Thiếu Lâm Tự. Đại sư Nhất Đăng sau nhiều năm tu luyện trên đỉnh Tuyết Sơn buốt giá, giờ đây với một tâm nguyện cao đẹp của kẻ cứu đạo độ đời, ngài quyết định xuống núi hành hiệp giang hồ, trừ tà hiển chánh, cứu thế độ nhân.
Một hôm, trong khi đại sư Nhất Đăng đang đi khất thực giữa một thị trấn ồn ào đô hội, ngài lấy làm ngạc nhiên bắt gặp những ánh mắt nghi ngờ xen lẫn khinh miệt của các thị dân đối với ngài. Vị cao tăng còn đang phân vân nghi hoặc, bỗng có một tiểu thí chủ từ trong quán trọ chạy ùa ra, níu chặt lấy vạt áo đại sư, khăng khăng nhất mực thỉnh mời ngài vào trong cao lâu để được cúng dường trai tăng. Linh tính báo cho vị cao tăng biết đây có thể là cơ hội để khám phá ra điều nghi vấn, thế nên ngài đành miễn cưỡng im lặng nhận lời.
Trong tửu quán chỉ có vị tiểu thí chủ là người duy nhất có thái độ sốt sắng, tự tay tiếp thức ăn loại cứng loại mềm cho đại sư, còn tất cả các thực khách khác đều giữ thái độ e dè, khi dễ. Nơi bàn đối diện với đại sư, một nhóm cái bang hành khất đang say sưa với rượu thịt cùng với những câu chuyện thời sự muôn thuở của họ.
Trưởng lão bang chủ cái bang liếc mắt nhìn vị khách tăng lạ mặt, cố ý nói lớn cốt để nhà sư và vị tiểu thí chủ cùng nghe:
_ Huynh đệ biết không, lão đạo sĩ thúi trụ trì chùa làng này phạm tội chủ mưu thông gian tà hạnh, cố ý hại người có chứng cớ rành rành. Thế nhưng lão vừa bị bắt lên quan phủ lại được tha về ngay. Vì quan và sư vốn là chỗ đồng môn với nhau nên họ cố tình bao che cho nhau. Bọn họ cứ luôn miệng huênh hoang ngụy biện, lờ tội cho nhau theo cái kiểu hý luận lập lờ đánh lận con đen “tội do tâm khởi, do tâm diệt”.
Một cái bang khác vờ như không nhìn thấy cái cau mày của nhà sư, thản nhiên giơ cao miếng đùi chó, hào hứng tiếp lời:
_ Cũng cái thuyết “tạo được, diệt được” ấy, nên mụ chủ quán thanh lâu đầu phố cứ đẻ được đứa con nào, mụ giết sạch đứa nấy. Mụ bảo với dân làng, những đứa con ấy do mụ đẻ ra nên cũng phải do chính mụ giết đi. Mỗi lần như thế, mụ đều giơ cao xâu chuỗi, hạt nào hạt nấy to bằng miếng thịt chó này này, miệng vừa lâm râm réo tên cúng cơm ai đó vừa ngâm nga: “tâm đã tịnh rồi, tội liền tiêu”.
Tên tiểu nhị đang dọn thức ăn cho khách tăng cũng quay sang góp ý:
_ Khắp thị trấn giờ đây toàn những bọn cô hồn, du thủ du thực. Chúng trộm cắpbày trò mê tín dị đoan, gạt người lấy của giữa ban ngày, đã thế còn ngang nhiên phủi tay vô tư như không có chuyện gì ầm ĩ. Sau khi ăn hàng xong, chúng còn nhìn nhau trâng tráo cười ha hả: “tội tiêu tâm tịnh thẩy đều không”.
Vị chủ quán nãy giờ mải lo công việc, giờ cũng tham gia nhiệt tình:
_ Tất cả cũng chỉ vì lão đạo sĩ thúi cứ luôn miệng khuyên nhủ mọi người: “Đó mới thực là chân sám hối”. Đúng là thứ giết người không gươm giáo. Mọi người đều kháo nhau “Miệng nhà quan có gang, có thép. Lưỡi đại lừa như rắn, như lươn”.
Nghe đến đây, Nhất Đăng Đại sư không thể tiếp tục ngồi yên được nữa. Nhanh như chớp ngài liền tung mình vươn tay túm chặt lấy viên chủ quán, nạt lớn:
_ Láo khoét! Các ngươi đừng hòng qua mắt ta. Làm gì có chuyện vô lý như thế? Bọn ngươi cố tình bịa chuyện để mỉa mai, vu khống, mạ lỵ người tu hành phải không?
Viên chủ quán bị giữ chặt cứng trong hai ngón tay như gọng kềm của vị khách tăng, y biết ngay đạo sư là bậc võ công thâm hậu, mặt lão liền biến sắc, hạ giọng run run:
_ Ấy chết, thưa đại sư, chúng con nào dám dối gạt ai, chỉ y giáo khẩu hành. Nói có sách mách có chứng, xin ngài xem đây.
Nói xong viên chủ quán mở bày cuốn kinh đang cầm trong tay cho vị khách tăng xem. Chỉ nhìn thoáng qua, Nhất Đăng đại sư đã phải giật mình vỡ lẽ. Thì ra nó đúng là quyển kinh dạy sám hối của bổn tự, nhưng do lâu ngày ngài ẩn tu xa lánh thế tục, không ngờ giờ đây nó đã bị kẻ xấu cải biên xuyên tạc đến như vậy.
Trong chớp mắt Nhất Đăng đại sư liền thi triển thần lực Biệt Phân Tuệ Chưởng, thổi một hơi phá nát cuốn kinh giả trong tay viên chủ quán. Mọi người còn chưa hết kinh hoàng đã thấy vị đại cao tăng vung cao tay áo, vận thần công theo thủ pháp Nhất Tâm Chỉ Quán, lấy ngón tay vạch những chữ khắc sâu xuống mặt bàn bằng đá cứng. Cả đám đông há hốc mồm kinh ngạc, nhất mực thán phục diệu lực vô song của vị đại sư.
Thế nhưng chưa ai kịp ngỏ lời tán thán, phút chốc đã thấy nhà sư xoay mình biến mất khỏi tửu quán. Đám thực khách đổ xô đến bên chiếc bàn đá, mọi người căng mắt nhìn bốn câu kệ còn nóng hổi với những đường nét sắc xảo thần kỳ ẩn hiện dưới làn khói trắng mờ ảo. Một lát sau dòng chữ mới hiện rõ, vị tiểu thí chủ vui mừng đọc lớn cho mọi người cùng nghe:
Tội do tâm khởi, do nhân quả diệt.
Nhân quả trả rồi, tội mới tiêu.
Tội tiêu tâm tịnh, nhân quả có.
Đó mới thực là chân sám hối.
Mọi người giật mình, không hẹn mà nên, tất cả đều hướng về núi Tuyết Sơn đảnh lễ, đồng thanh reo vang:
_ Thiện lai Đại sư! Thiện lai Đại sư!
Cũng từ đó tôn hiệu Thiện Lai Đại sư lan truyền khắp thiên hạ, danh chấn giang hồ, uy vũ trùm khắp, đến độ một số tà sư đã phải sợ hãi hoàn lương cải tà quy chánh, không dám tiếp tục lợi dụng tôn giáo làm điều càn quấy. Chỉ tiếc một điều, nhà văn Kim Dung đã không có duyên may diện kiến vị thần tăng ấy, nên ông đã không có dịp cậy nhờ ngài dẹp trừ bọn đạo sĩ thúi trong những tiểu thuyết võ hiệp của mình. Chính vì thế, cho đến nay, đây đó vẫn còn một vài “lão sư hổ mang”, ngựa quen đường cũ, nghiệp ác không chừa, cứ thản nhiên giữ nếp cũ thực hành “ngụy sám hối” như xưa.
Kim Zung Zăng

Thiện giới, thiện tư duy được diệt trừ?

Lạ chưa? Thiện giới, thiện tư duy lại được diệt trừ không có dư tàn? Phật Thích Ca dạy trong Chánh Kinh rõ ràng. Các thiền sư, pháp sư, hoà thượng, tiến sĩ PH hãy giải thích để xứng đáng với danh hiệu mà mình đang có



Pháp Hoa phạm đại tội phá hoà hợp Tăng



'Bầu ơi thương lấy Bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn'. Thế gian chung một giàn còn biết kêu gọi đoàn kết thương yêu lẫn nhau, huống hồ chung một ĐẠO PHẬT.

'Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng'. Vừa trong cùng một nước lại trong cùng một ĐẠO PHẬT, mà Pháp Hoa Đại thừa kêu gọi khinh chê chia rẽ Thanh Văn Tiểu Thừa là sao? Toàn bộ kinh Nikaya Nguyên Thuỷ, có chỗ nào Đức Phật dạy chia rẽ chúng tăng, hội chúng?

'Khôn ngoan đá đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau'. Gà cùng một mẹ còn không nên đá nhau, khinh thường nhau; huống hồ cùng mang danh con Phật. Kẻ gây chia rẽ trong Đạo Phật vừa không bằng gà, lại còn bị đọa Địa ngục Vô gián không thể chữa trị vì tội PHÁ HOÀ HỢP TĂNG. Những ai còn tin Pháp Hoa và tam tạng Đại thừa hãy quay đầu về nguồn may ra còn kịp cứu lấy mình.

NHỮNG LỜI DẠY QUAN TRỌNG TRƯỚC LÚC PHẬT NHẬP NIẾT BÀN.


Địa Tạng Đại Thừa phỉ báng Phật


Hiểu sai về VÔ NGÃ là rơi vào bẫy của Bà La Môn


Hàng ngàn năm qua, Phật giáo cả Bắc và Nam Tông đã bị rơi vào bẫy của các giả sư Bàlamôn khi hiểu 'vô ngã' là vô ngã tánh, tức không có cái TA, không có cái bản thể.

Từ đây, phái Bắc Tông bị nô lệ phục tùng bởi giáo lý 'Tánh Không' <không mắt tai mũi lưỡi thân ý, không nhãn thức cho đến không ý thức...>, để rồi đi đến phủ định sạch trơn BỐN THÁNH CHÂN LÝ của CHƯ PHẬT <không Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Xem 'kinh tâm Bát nhã'>.


Còn phái Nam Tông thì bị tạng Luận vi diệu pháp cuốn hút đến độ xem thường cả Chánh Kinh - Chánh Luật. Mặc nhiên xem những luận giải phi pháp của kẻ đời sau về 'vô ngã tánh' ngang hàng với THÁNH KINH của PHẬT <xem 'kinh' Mi Tiên vấn đáp'.

Nguyên nhân là do không hiểu rõ khái niệm 'VÔ NGÃ' của Đức Phật nên tất cả đã không thoát khỏi bẫy sập của con cháu Bàlamôn. Các khảo luận công phu dưới đây đã giải nghi nhiều về vấn đề này






Nhị Tạng chứ không phải 'tam tạng'


Trích Kinh THANH TỊNH, số 29, Trường Bộ 2,

PHẬT DẠY: “Nếu có ai, khi tả một phạm hạnh, thành tựu hết thảy tướng, không thiếu sót, không quá đáng, được khéo tuyên bố một cách viên mãn, vị ấy nếu tuyên bố đúng đắn sẽ tuyên bố như sau: "Phạm hạnh này thành tựu hết thảy tướng, cụ túc hết thảy tướng, không thiếu thốn, không quá đáng, được khéo tuyên bố một cách viên mãn, được khéo trình bày”.

Này Cunda, Uddaka con của Ràma thường nói: "Thấy mà không thấy". Thấy cái gì mà không thấy? Với một con dao sắc bén, chỉ thấy lưỡi dao không thấy khía cạnh sắc bén của dao. Này Cunda, đấy là nghĩa của câu: "Thấy mà không thấy".


Này Cunda, ở đây Uddaka con của Ràma đề cập đến một vật đê tiện, hạ liệt, thuộc về phàm phu, không xứng bậc Thánh, không có lợi ích, nói về con dao. Này Cunda, nếu nói đúng đắn câu "Thấy mà không thấy", thời phải nói như sau: "Thấy mà không thấy. Vị ấy thấy cái gì mà không thấy?”

Một phạm hạnh, thành tựu hết thảy tướng, đầy đủ hết thảy tướng, không thiếu sót, không quá đáng, được khéo tuyên bố một cách viên mãn, được khéo trình bày. Chính vị ấy thấy phạm hạnh này.

Nếu vị ấy trừ bớt một phương diện nào tại một chỗ nào, nghĩ rằng làm vậy sẽ được rõ ràng hơn, vị ấy sẽ không thấy gì. Nếu vị ấy thêm vào một phương diện nào tại chỗ nào, nghĩ rằng làm vậy sẽ được rõ ràng hơn, vị ấy sẽ không thấy gì. Nếu vị ấy thêm vào một phương diện nào tại chỗ nào, nghĩ rằng làm vậy được viên mãn hơn, vị ấy sẽ không thấy gì. Như vậy gọi là "Thấy mà không thấy... <HT Minh Châu dịch Việt>

Ý kiến con Phật:

Cũng giống như Uddaka con của Ràma, những luận sư sau này chính là những kẻ “tưởng thấy mà không thấy” nên mới bày đặt thêm vào một tạng Luận bên cạnh hai thánh tạng Kinh và Luật của Đức Thế Tôn. Họ làm vậy và tưởng rằng được rõ ràng hơn, giá trị hơn, nhưng kỳ thật họ bị Đức Phật gọi là những kẻ “tưởng thấy mà không thấy”.

Lại có những người giới hạnh không thanh tịnh nên tâm không thanh tịnh. Tâm không thanh tịnh nên tri kiến không thanh tịnh. Tri kiến không thanh tịnh nên không thể hiểu trực tiếp Kinh và Luật của Đức Thế Tôn. Cho nên họ phải tin theo các luận sư và dựa vào các chú giải, luận giải đến độ xem thường hoặc bỏ lờ tạng Kinh điển của Phật vì tin rằng nó chỉ là tục đế, là thường pháp, không phải chân nghĩa đế; luận Vi diệu pháp mới chính là pháp vi diệu. Những kẻ này làm vậy và tưởng rằng được rõ ràng hơn, hiểu Phật pháp hơn, nhưng kỳ thật họ cũng bị Đức Phật gọi là những kẻ “tưởng thấy mà không thấy”.

CON PHẬT THÍCH CA

Hiểu sai về 'VÔ NGÃ'

Rõ ràng cách hiểu 'vô ngã là không có ngã tánh, không có cái ta, cái bản thể' như từ trước tới nay là không đúng. Đây là cách hiểu 'vô ngã' của phái CHẤP ĐỌAN KIẾN của Bà La Môn

Thần chú Lăng nghiêm Bà La Môn


Vì vô minh làm phước hành là sao?


Mật chú Lăng nghiêm đại lừa Bà La Môn


Biệt trú độc cư


Chú Cuội bịa kinh Pháp Hoa đại lừa


Lăng Nghiêm đại lừa


Hoa Nghiêm Đại Bịp


Thứ Năm, 29 tháng 8, 2019

Chỉ Quán gắn liền cột chặt

QUÁN là quán sát, quán xét, quán tầm, quán tưởng. Ví dụ như quán thân trên thân, quán thọ trên các thọ, quán tâm trên tâm, quán pháp trên các pháp <Đây là CHÁNH NIỆM>

CHỈ là ngưng, dừng, ngăn lại; như trong từ 'đình chỉ, tịnh chỉ...' Ví dụ khi chú tâm vào hơi thở, vào các oai nghi hành động sẽ giúp ngăn, dừng, ngưng vọng niệm. <Đây là TỈNH GIÁC thuộc pháp tu CHỈ>
Nhưng trong BỐN NIỆM XỨ, cũng như các pháp tu khác của Đức Phật, đều có CHỈ QUÁN song hành liền chặt, như hai mặt của đồng tiền vậy.

Thứ Tư, 28 tháng 8, 2019

Pháp hoa đại lừa

Qua hàng chục thế kỉ kinh Diệu Pháp Liên Hoa hay Pháp Hoa được Đại Thừa giáo xem như kinh vua, bởi... người ta đọc bằng đức tin hơn là lý trí.
Dẫn chứng: Ngay phần đầu cũng đã sờ sờ sự ngụy tạo nhưng không ai phát hiện: thời Phật Thích Ca trước sau Tăng chúng chỉ một ngàn hai trăm năm mươi vị A La Hán <1.250>, thế nhưng Pháp Hoa Đại thừa nổ thành mười hai ngàn vị A La hán <12.000>. Con số nhiều gấp mười lần mà không ai thấy, thì Pháp Hoa là kinh vua <bịp> chứ còn gì nữa.

Truyền thống ăn chay Bàlamôn

Các Bàlamôn chay thường rêu rao 'ăn chay từ bi', ăn chay không sát sanh; nhưng thực tế lại hoàn toàn khác hẳn. Các Bàlamôn xưa và nay làm sao có được 'Phật nhãn' như Đức Thế Tôn. Họ càng mạt sát 'ăn mặn' là càng tự phỉ báng chính mình

Câu hỏi cho kinh Nalakapana

Một đoạn Chánh Kinh ngắn cũng không dễ trả lời. Các tiến sĩ Phật học nào huênh hoang đòi 'tu thành Phật' hãy lấy kinh sách của mình giải đáp


Pháp Hoa tà giáo rành rành

Niu pháp liên ma
Chân Ngôn
Bà lão hàng xóm quê mùa vừa thấy hai bé gái trong Gia Đình Phật Tử thế hệ mới đi ngang qua, liền vồn vã gọi lại. Bà cụ vừa khoe cuốn sách cũ nát trong tay, vừa ghé vào tai bọn trẻ nói với vẻ quan trọng:
_ Mấy cháu ráng tụng kinh này vì “Dù cho tạo tội hơn núi cả. Niệu Pháp Hoa Liên tụng mấy hàng” là xong ngay!
Đứa gái nhỏ chẳng thèm để mắt tới quyển sách, chắp hai tay nói ngay:
_ Thưa bà, sao bà không vào trại giam đưa cho các tù nhân để cứu họ? Phật pháp bất ly thế gian pháp kia mà? Tụng vài hàng mà được hết núi tội, được ra tù, phạm nhân nào không ham?
Bé gái lớn phụ họa:
_ Nếu đúng như thế, nó chỉ có lợi cho kẻ gây tội ác, còn các nạn nhân của họ thì sao, thưa bà? Cứ xong ngay tất cả để người ta mặc tình làm ác, mặc tình tạo tội thì nhân quả chỗ nào, trí tuệ giáo dục cải hoá chỗ nào? Cho nên bà phải gọi nó là Pháp Niệu Liên Ma mới đúng!
Bé gái nhỏ tiếp lời:
_ Thưa bà, giả sử có kẻ hãm hại gia đình bà cùng tất cả người thân của bà, hắn tạo ‘tội hơn núi cả’ như vậy, nhưng nhờ tụng Niệu Pháp Liên Ma vài hàng là xong ngay. Bà nghĩ sao?
Bà lão hàng xóm giật mình tỉnh ngộ:
_ Ừ nhỉ! Các cháu nói chí lý!
Ngay tức khắc bà lão thẳng tay ném cuốn kinh giả vào sọt rác. Cả ba bà cháu nhìn nhau trìu mến như những người thân quen từ muôn kiếp nào.

Lý của Bậc Thánh

Pháp 12 CHI PHẦN NHÂN DUYÊN là Thánh Lý, tức là LÝ của bậc THÁNH. Dù là lý luận, lý lthuyết, lý lẽ nhưng đều nhằm mục đích giúp người thọ trì thóat khổ.
Hãy nghiên cứu kĩ Thánh Lý này để thấy rõ hơn Diệu Pháp cứu khổ của Đức Phật

Pháp hoa tà vạy

Đã là tà kinh ngụy pháp, đồ giả hàng dỏm thì đụng tới đâu lòi ngay cái rởm tới đó. Khốn thay khi không có CON MẮT TRÍ TUỆ̣ thì muôn đời cũng không nhận ra.

Hầu hết các tam tạng Đại Thừa đều cùng một kiểu tuyên truyền: chỉ cần tin theo kinh tạng Đại Thừa, bồ tát Đại giáo thì tội ác đến đâu cũng tiêu tan. Ngược lại nếu phản bác lại Đại Thừa thì tội sa địa ngục.
Đây là kiểu cai trị 'cây gậy và củ cà rốt' của các chủ chăn đối với những tín đồ nô lệ ngây thơ liệt tuệ.