Chỉ cần hiểu rõ ĐẠI KINH PHƯƠNG QUẢNG do tôn giả Xá Lợi Phất của Nguyên Thủy thuyết giảng, cũng quá đủ để không tin một Tướng Quân Chánh Pháp như Ngài lại dễ dàng để cho Bồ-tát Quán Tự Tại của Đại Thừa lên giọng hý luận Bát nhã 'yết đế yết đế'.
Vị nào không đồng ý hãy đọc bài kinh này và trả lời các câu hỏi. Nếu không hiểu và không trả lời được thì đừng vội nhai lại đờm dãi của ác ma mà xúc phạm Bậc Thánh Tăng A La Hán của Đạo Phật: 'Này Xá Lợi tử..." để bị quả báo đau thương.
>>>O<<<<
Đại Kinh
Phương Quảng
(Mahāvedalla Sutta)
(TB I, 43)
1. Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, tịnh xá
ông Anathapindika.
2. Lúc bấy giờ, Tôn giả Maha
Kotthita (Ðại Câu-hy-la), vào buổi
chiều, khi thiền định xong, đứng dậy, đi đến chỗ Tôn giả Sariputta ở, sau
khi đến nói lên với Tôn giả Sariputta những lời chào đón, hỏi thăm xã giao rồi
ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Maha Kotthita nói với
Tôn giả Sariputta:
3. -- Này Hiền giả, liệt tuệ, liệt
tuệ (Suppanna) được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế
nào được gọi là liệt tuệ?
4. -- Này Hiền giả, vì không tuệ tri, không tuệ tri
(Nappajanati), này Hiền giả nên được gọi là liệt tuệ. Không tuệ tri
gì? Không tuệ tri: đây là Khổ, không tuệ tri: đây là
Khổ tập, không tuệ tri: đây là Khổ diệt, không tuệ tri: đây là Con đường đưa
đến Khổ diệt. Vì không tuệ tri, không tuệ tri, này Hiền giả,
nên được gọi là liệt tuệ.
--Lành thay, Hiền giả!
5. Tôn giả Maha Kotthita hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Sariputta nói, rồi
hỏi Tôn giả Sariputta một câu hỏi nữa:
-- Này Hiền giả, trí tuệ, trí
tuệ được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế
nào là được gọi là trí tuệ?
-- Vì có tuệ tri, có tuệ tri, này Hiền giả, nên được gọi là trí
tuệ. Có tuệ tri gì? Có tuệ tri:
đây là Khổ, có tuệ tri: đây là Khổ tập, có tuệ tri: đây là Khổ diệt, có tuệ
tri: đây là Con đường đưa đến Khổ diệt. Vì có tuệ
tri, có tuệ tri, này Hiền giả, nên được gọi là trí tuệ.
6. -- Thức, thức, này Hiền giả, được gọi là như vậy. Này Hiền giả,
như thế nào được gọi là thức?
-- Này Hiền giả, vì thức tri, thức tri, này Hiền giả nên
được gọi là có thức. Thức tri gì? Thức tri lạc, thức tri khổ, thức tri bất
khổ bất lạc. Vì thức tri, thức tri,
này Hiền giả, nên được gọi là có thức.
7. -- Nầy Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như vậy, những pháp này được kết hợp hay
không được kết hợp? Có thể chăng, nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau
khi phân tích chúng nhiều lần?
-- Này Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như
vậy, những pháp này được kết hợp,
không phải không kết hợp. Không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng
nhiều lần. Này Hiền giả, điều gì tuệ
tri được là thức tri được, điều gì thức tri được là tuệ tri được. Do vậy, những pháp này được kết hợp, không phải
không kết hợp, và không có thể nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau khi
phân tích chúng nhiều lần.
8. -- Này Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như vậy, thế nào là sự sai
khác giữa những pháp được kết hợp, không phải không kết hợp này?
-- Này Hiền giả, trí tuệ như vậy, thức như vậy, giữa những pháp được kết
hợp, không phải không được kết hợp này, trí tuệ cần phải được
tu tập (Bhavetabba), còn thức cần phải được liễu tri (Parinneyyam) như vậy là sự sai khác giữa những pháp này.
9. -- Cảm thọ, cảm thọ, này Hiền giả, được gọi là như vậy. Này Hiền giả,
như thế nào được gọi là cảm thọ?
-- Này Hiền giả, cảm thọ, cảm thọ (Vedeti), nên được gọi là cảm thọ. Và
cảm thọ gì? Cảm thọ lạc, cảm thọ khổ, cảm thọ bất khổ bất
lạc. Này Hiền giả, cảm thọ, cảm thọ, nên được gọi là
cảm thọ.
10. -- Này Hiền giả, tưởng, tưởng
(Sanna) được gọi là như vậy. Này Hiền giả, như thế
nào được gọi là tưởng?
-- Tưởng tri, tưởng tri (Sanjanati), này Hiền giả, nên được
gọi là tưởng, Và tưởng tri gì? Tưởng tri màu
xanh, tưởng tri màu vàng, tưởng tri màu đỏ, tưởng tri màu trắng. Tưởng tri, tưởng tri, này Hiền giả, nên được gọi
là tưởng.
11. -- Này Hiền giả, thọ như vậy, tưởng như vậy, những pháp này được kết hợp hay
không được kết hợp? Có thể chăng, nêu lên sự sai khác giữa những pháp này, sau
khi phân tích chúng nhiều lần?
-- Này Hiền giả, cảm thọ như vậy, tưởng như
vậy, những pháp này được kết hợp, không phải không được
kết hợp. Không có thể nêu lên sự sai khác giữa những
pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần. Này Hiền giả, điều gì cảm thọ được là tưởng tri được, điều gì
tưởng tri được là cảm thọ được. Do vậy, những
pháp này được kết hợp, không phải không được kết hợp, và không có thể nêu lên
sự sai khác giữa những pháp này, sau khi phân tích chúng nhiều lần.
12. -- Này Hiền giả, ý thức thanh
tịnh, không liên hệ đến năm căn có thể đưa đến gì?
-- Này Hiền giả, ý thức thanh
tịnh, không liên hệ đến năm căn, có thể đưa đến Hư không vô biên xứ;
Hư không là vô biên, có thể đưa đến Thức vô biên xứ; Thức là vô
biên, có thể đưa đến Vô sở hữu xứ, không có sự vật gì.
13. -- Này Hiền giả, pháp gì đưa
đến nhờ gì có thể tuệ tri được?
-- Này Hiền giả, nhờ tuệ nhãn, pháp được đưa đến có thể tuệ
tri.
14. -- Này Hiền giả, trí tuệ có ý
nghĩa gì?
-- Này Hiền giả, trí tuệ có ý nghĩa là thắng tri (Abhinnattha),
có nghĩa là liễu tri (Parinnattha), có nghĩa là đoạn tận (Pahanattha).
15. -- Này Hiền giả, có bao nhiêu
duyên khiến Chánh tri kiến sanh khởi?
-- Này Hiền giả, có hai duyên khiến
Chánh tri kiến sanh khởi: Tiếng của người khác và Như
lý tác ý. Này Hiền giả, do hai duyên này, Chánh
tri kiến sanh khởi.
16. -- Này Hiền giả, Chánh tri kiến
phải được hỗ trợ bởi bao nhiêu chi phần để có tâm giải thoát quả, tâm giải
thoát quả công đức; và tuệ giải thoát quả, tuệ giải thoát quả công đức?
-- Này Hiền giả, Chánh tri kiến phải được hỗ trợ bởi năm chi
phần để có tâm giải thoát quả, tâm giải thoát quả công đức, tuệ giải
thoát quả và tuệ giải thoát quả công đức. Ở đây, này Hiền giả, Chánh tri
kiến có giới hỗ trợ, có văn (Suta) hỗ
trợ, có thảo luận hỗ trợ, có Chỉ (Samatha) hỗ trợ,
có Quán (Vipassana) hỗ trợ. Này Hiền giả, Chánh tri kiến được hỗ trợ bởi năm
chi phần này để có tâm giải thoát quả, tâm giải thoát quả công đức, tuệ giải
thoát quả và tuệ giải thoát quả công đức.
17. -- Này Hiền giả, có bao nhiêu
hữu (Bhava)?
-- Này Hiền giả có ba hữu: dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu.
18. -- Này Hiền giả, như thế nào sự tái sanh trong tương lai được xảy ra?
-- Này Hiền giả, bị vô minh ngăn che, bị tham ái trói buộc, các
loài hữu tình thích thú chỗ này chỗ kia, như vậy, sự tái sinh trong tương lai
được xảy ra.
19. -- Này Hiền giả, như thế nào sự tái sanh trong tương lai không xảy ra?
-- Này Hiền giả, vô minh được xả ly, minh khởi, tham ái được
đoạn diệt, như vậy sự tái sanh trong tương lai không xảy ra.
20. -- Này Hiền giả, thế nào là Thiền Thứ Nhất?
-- Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp,
chứng và trú Thiền Thứ Nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có
tứ. Như vậy, này Hiền giả, gọi là Thiền Thứ Nhất.
21. -- Này Hiền giả, Thiền Thứ Nhất
có bao nhiêu chi phần?
-- Này Hiền giả, Thiền Thứ Nhất có năm chi phần. Ở đây, này
Hiền giả, Tỷ-kheo thành tựu Thiền Thứ Nhất, có Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất
Tâm. Này Hiền giả, Thiền Thứ Nhất có năm chi phần như vậy.
22. -- Này Hiền giả, Thiền Thứ Nhất
từ bỏ bao nhiêu chi phần và thành tựu bao nhiêu chi phần?
-- Này Hiền giả, Thiền Thứ Nhất từ bỏ năm chi phần và thành tựu
năm chi phần. Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo thành tựu Thiền Thứ
Nhất từ bỏ tham dục, từ bỏ sân, từ bỏ hôn trầm thụy miên, từ bỏ trạo
hối, từ bỏ nghi; thành tựu Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất Tâm. Này Hiền giả, như
vậy Thiền Thứ Nhất từ bỏ năm chi phần, và thành tựu năm chi phần.
23. -- Này Hiền giả, năm căn này, có cảnh giới khác nhau, có hành giới
khác nhau, không có lẫn lộn cảnh giới, hành giới với nhau. Tức là mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân. Này Hiền giả, giữa năm căn này, có cảnh giới sai khác, có hành
giới sai khác, không có thọ lãnh cảnh giới, hành giới lẫn nhau, cái gì làm sở y cho chúng, cái gì lãnh thọ cảnh
giới, hành giới của chúng?
-- Nầy Hiền giả, năm căn này, có cảnh giới sai khác, có
hành giới sai khác, không có lãnh thọ cảnh giới, hành giới lẫn nhau, tức là
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Này Hiền giả, giữa năm căn này, có cảnh giới sai khác,
có hành giới sai khác, không có lẫn lộn cảnh giới, hành giới với nhau. Ý làm sở y cho chúng, và ý lãnh thọ cảnh giới và hành giới của chúng.
24. -- Này Hiền giả, năm căn này là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Này Hiền
giả, năm căn này, do duyên gì mà chúng an trú?
-- Này Hiền giả, năm căn này là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Này Hiền giả,
năm căn này, do duyên tuổi thọ (Ayu) mà chúng an trú.
25. -- Này Hiền giả, tuổi thọ do
duyên gì mà an trú?
-- Tuổi thọ do duyên hơi nóng mà an trú.
26. -- Này Hiền giả, hơi nóng do
duyên gì mà an trú?
-- Hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú.
27. -- Này Hiền giả, nay chúng tôi được biết từ lời nói của Tôn giả
Sariputta là tuổi thọ do duyên hơi nóng mà an trú. Nay chúng tôi lại được biết
từ lời nói của Tôn giả Sariputta là hơi nóng do duyên tuổi thọ mà an trú. Này
Hiền giả, như thế nào, cần phải hiểu ý nghĩa lời nói này?
-- Này Hiền giả, tôi sẽ cho một ví dụ. Nhờ ví dụ, ở đây, một số người có
trí sẽ hiểu ý nghĩa lời nói. Này Hiền giả, ví như khi một cây đèn dầu được thắp
sáng, duyên tim đèn, ánh sáng được hiện ra, do duyên ánh sáng, tim đèn được thấy.
Cũng vậy này Hiền giả, tuổi thọ do duyên hơi nóng mà an trú, và hơi nóng do
duyên tuổi thọ mà an trú.
28. -- Này Hiền giả, những pháp thọ hành (Ayusankhara) này là
những pháp được cảm thọ (Vedaniya) này, hay những pháp thọ hành này khác với
những pháp được cảm thọ này?
-- Này Hiền giả, những pháp thọ hành này không phải là những pháp được cảm thọ này. Này Hiền giả, nếu những pháp thọ hành này là
những pháp được cảm thọ này thì không thể nêu rõ sự xuất khởi của vị Tỷ-kheo đã
thành tựu Diệt Thọ Tưởng Định. Này Hiền giả, vì rằng nhữngpháp thọ hành khác, những pháp được cảm
thọ khác nên có thể nêu rõ sự
xuất khởi của vị Tỷ-kheo đã thành tựu Diệt Thọ Tưởng Định.
29. -- Này Hiền giả, đối với thân
này, khi nào có bao nhiêu pháp được từ bỏ, thì thân này được nằm xuống, quăng
đi, vất bỏ, như một khúc gỗ vô tri?
-- Này Hiền giả, đối với thân này, khi nào ba pháp được từ bỏ:
Tuổi thọ, hơi nóng và thức, thì thân này nằm xuống, được quăng đi, vất bỏ,
như một khúc gỗ vô tri.
30. -- Này Hiền giả, có sự sai khác
gì giữa vật chết, mạng chung này với vị Tỷ-kheo thành tựu Diệt Thọ Tưởng Định?
-- Này Hiền giả, vật chết, mạng chung này, thân hành của nó chấm
dứt, dừng lại; khẩu hành chấm dứt, dừng lại; tâm hành chấm dứt, dừng lại, tuổi
thọ diệt tận, hơi nóng tiêu diệt, các căn bị bại hoại. Còn vị Tỷ-kheo thành
tựu Diệt Thọ Tưởng Định, thì thân hành của vị này được chấm dứt, được
dừng lại, khẩu hành được chấm dứt, được dừng lại, tâm hành được chấm dứt, được
dừng lại, nhưng tuổi thọ không diệt tận, hơi nóng không tiêu diệt, các căn được
sáng suốt. Này Hiền giả, như vậy là sự sai khác giữa vật chết, mạng
chung này với vị Tỷ-kheo thành tựu Diệt Thọ Tưởng Định.
31. -- Này Hiền giả, có bao nhiêu
duyên để chứng nhập Tâm giải thoát bất khổ bất lạc?
-- Này Hiền giả, có bốn duyên để chứng nhập Tâm giải
thoát bất khổ bất lạc. Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ,
diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền Thứ Tư, không khổ, không lạc,
xả niệm thanh tịnh. Này Hiền giả, do bốn duyên này mà chứng nhập Tâm giải
thoát bất khổ bất lạc.
32. -- Này Hiền giả, có bao nhiêu
duyên để chứng nhập Vô Tướng Tâm Giải Thoát?
-- Này Hiền giả, có hai duyên để chứng nhập Vô Tướng
Tâm Giải Thoát: không có tác ý nhất thiết tướng và tác ý vô tướng giới. Này
Hiền giả, do hai duyên này mà chứng nhập Vô Tướng Tâm Giải Thoát.
33. -- Này Hiền giả, có bao nhiêu
duyên để an trú Vô Tướng Tâm Giải Thoát?
-- Này Hiền giả, có ba duyên để an trú Vô Tướng Tâm
Giải Thoát: không tác ý nhất thiết tướng, tác ý vô tướng giới, và một
sự sửa soạn trước. Này Hiền giả, do ba duyên này mà an trú Vô Tướng Tâm
Giải Thoát.
34. -- Này Hiền giả, có bao nhiêu
duyên để xuất khởi Vô Tướng Tâm Giải Thoát?
-- Này Hiền giả, có hai duyên để xuất khởi Vô Tướng Tâm
Giải Thoát: tác ý nhất thiết tướng và không tác ý vô tướng giới.
Này Hiền giả, do hai duyên này mà xuất khởi Vô Tướng Tâm Giải Thoát.
35. -- Này Hiền giả, Vô Lượng Tâm
Giải Thoát này, Vô Sở Hữu Tâm Giải Thoát này, Không
Tâm Giải Thoát này và Vô Tướng Tâm Giải Thoát này,
những pháp này nghĩa sai biệt và danh sai biệt, hay nghĩa đồng nhất và danh sai
biệt.
36. -- Này Hiền giả, Vô Lượng Tâm Giải Thoát, Vô Sở Hữu Tâm Giải Thoát,
Không Tâm Giải Thoát và Vô Tướng Tâm Giải Thoát này, có một pháp môn,
này Hiền giả, do pháp môn này, các pháp ấy nghĩa sai biệt và danh sai biệt.
Và này Hiền giả, lại có một pháp môn, do pháp môn này, các pháp ấy có
nghĩa đồng nhất và danh sai biệt.
37. Này Hiền giả, thế nào là có
pháp môn, do pháp môn này các pháp ấy có nghĩa sai khác và có danh sai khác?
*/ Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo an trú biến mãn một phương với tâm
câu hữu với Từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba,
cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết
thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu
với Từ, quảng đại, vô
biên, không hận, không sân.
*/ Vị Tỷ-kheo an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với Bi, cũng vậy
phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng
khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên
giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với Bi, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
*/ Vị Tỷ-kheo an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với Hỷ, cũng vậy
phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng
khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên
giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với Hỷ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
*/ Vị Tỷ-kheo an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với Xả, cũng vậy
phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng
khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên
giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với Xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
Như vậy, này Hiền giả, gọi là Vô Lượng Tâm Giải Thoát.
38. Và này Hiền giả, thế nào
là Vô Sở Hữu Tâm Giải Thoát?
Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức Vô Biên Xứ, nghĩ rằng:
"Không có vật gì", chứng và trú Vô Sở Hữu Xứ. Như vậy,
này Hiền giả, gọi là Vô Sở Hữu Tâm Giải Thoát.
39. Và này Hiền giả, thế nào là Không Tâm Giải Thoát?
Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay
đi đến chỗ nhà trống và suy nghĩ như sau: "Ðây trống không, không có tự
ngã hay không có ngã sở". Như vậy, này Hiền giả, gọi là Không Tâm Giải
Thoát.
40. Và này Hiền giả, thế nào là Vô Tướng Tâm Giải Thoát?
Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo không tác ý với nhất thiết
tướng, đạt và an trú Vô Tướng Tâm Định. Như vậy, này Hiền giả, gọi là Vô
Tướng Tâm Giải Thoát.
41. Như vậy là có pháp môn và do pháp môn này những pháp ấy
nghĩa sai biệt và danh sai biệt.
42. Và này Hiền giả, thế nào là có
pháp môn và do pháp môn này các pháp ấy có nghĩa đồng nhất nhưng danh sai biệt?
43. Tham, này Hiền giả, là nguyên nhân của hạn lượng; sân là
nguyên nhân của hạn lượng; si là nguyên nhân của hạn lượng.
Ðối với vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ các lậu hoặc và tham, sân, si này đã được chặt tận
gốc như thân cây tala được chặt tận gốc, khiến chúng không thể tái sanh trong
tương lai. Này Hiền giả, khi nào các tâm giải thoát là vô lượng,
thì Bất Động Tâm Giải
Thoát được gọi là tối thượng đối
với các tâm giải thoát ấy, và Bất Động Tâm Giải Thoát không có tham, không có
sân, không có si.
44. Tham, này Hiền giả, là một vật gì (chướng ngại), sân là một vật gì (chướng ngại), si là
một vật gì (chướng ngại). Ðối với vị Tỷ-kheo đã đoạn trừ các lậu hoặc,
thì tham, sân, si này đã được chặt tận gốc, như thân cây tala được chặt tận gốc,
khiến chúng không thể tái sanh trong tương lai. Này Hiền giả, khi nào các
tâm giải thoát là vô lượng, thì Bất Động Tâm Giải Thoát được gọi là tối thượng đối với các tâm giải thoát ấy, và Bất Động Tâm
Giải Thoát không có tham, không có sân, không có si.
45. Tham, này Hiền giả, là nhân tạo ra tướng, sân là
nhân tạo ra tướng, si là nhân tạo ra tướng. Ðối với vị Tỷ-kheo
đã đoạn trừ các lậu hoặc, thì tham, sân,
si này được chặt tận gốc, như thân cây tala được chặt
tận gốc, khiến chúng không thể tái sanh trong tương lai. Này Hiền giả, khi
nào các tâm giải thoát là vô lượng, thì Bất Động Tâm Giải Thoát được gọi là tối thượng đối với các tâm giải thoát
ấy, và Bất Động Tâm Giải Thoát không có tham, không có sân, không có si.
46. Như vậy, này Hiền giả, là pháp môn này, những pháp ấy là đồng nghĩa nhưng danh sai biệt.
47. Tôn giả Sariputta thuyết giảng như vậy. Tôn giả Maha Kotthita hoan
hỷ, tín thọ lời Tôn giả Sariputta dạy.
Sa-môn Thích Minh Châu dịch
Việt