TẬP KHẢO LUẬN
Sư già mất dạy
và
Con ngựa thành Troy
trong Phật giáo Nam Tông
Nhị Tạng Vương
***
Nhận diện “con ngựa thành Troy”
trong Phật giáo Nam Tông
(Phần 3)
MỤC LỤC
Phần 1
Phần 2
Phần 3
|
Thế nhưng, thật nguy hiểm và đáng lưu ý, như trong phần phụ giải ở trang 93 sách “Chú giải Kinh Pháp Cú tập 1” trích dẫn ở trên, dịch giả Pháp Minh cũng đã nêu rõ:
“Ngài Buddhaghosa, tác giả bộ Chú Giải Pháp Cú Kinh, là một Tỳ-khưu ở xứ Thaton, dòng dõi Bà-la-môn xuất gia theo Phật giáo vào thế kỷ thứ V, Ngài rất thông suốt Tam Tạng và được Phật giáo Nam Tông xem là một vị Thánh Tăng, đã có công chấn chỉnh Phật giáo suy đồi ở Tích Lan, thủ tiêu những kinh điển mà Ngài cho là không đúng đường lối của Đức Phật, và có viết lại bằng Pāli những Bộ Chú Giải, nhất là bộ Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo) mà chư Tăng ngày nay lấy làm kinh chánh để tu học về GIỚI - ĐỊNH - TUỆ.
Tuy nhiên, gần đây có một số chư Tăng ở Thái Lan bắt đầu ngờ vực những công trình của Ngài. Vì lẽ, dòng dõi Bà-la-môn của Ngài bao giờ cũng chủ tâm dẹp bỏ Phật giáo, hay ít nhất cũng hạ bệ Phật và sắp Ngài vào hàng dưới Đức Phạm Thiên của họ, biết đâu chừng những kinh chính thống Phật giáo đã bị thiêu đốt và thay thế bằng những giáo lý lai Bà-la-môn?”.
Trước hết, chuyện ông Bà-la-môn này có phải là Thánh tăng hay không, chỉ có Đức Thế Tôn mới biết được, và cũng chỉ có Đức Phật mới đủ quyền hạn ấn chứng Thánh quả cho người khác mà thôi.
Tiếc thay Phật Âm ra đời sau Phật Thích Ca hàng ngàn năm, vậy làm sao Đức Phật phong A-la-hán cho ông ta được? Nếu Phật Âm tự xưng thì vị Tỳ-kheo gốc Bà-la-môn này đã phạm đại tội Ba La Di thứ tư (trừ khi ông ta là kẻ đại vọng ngữ).
Còn nếu ông ta không tự xưng, thử hỏi, ông Tỳ-kheo nào trong đám hậu sinh lại dám và dựa vào đâu phong Thánh cho vị truyền nhân Bà-la-môn này?
Nếu căn cứ vào mớ chú giải đồ sộ của Phật Âm mà tôn làm Thánh tăng ư? Hãy coi chừng! Vì sao? Vì một kẻ gián điệp với ý thức “chống phá các phái ly giáo khỏi Bà-la-môn không mệt mỏi” và được huấn luyện bởi hai phái "vijja" và "sippa”, và có kiến thức rất sâu rộng về ba phái "Phệ-đà”chẳng lẽ không làm nổi chuyện này hay sao?
Các chú giải của Bà-la-môn Phật Âm có “đồ sộ” bằng các kinh-luật-luận của các luận sư Bà-la-môn ở phương Bắc như Long Thọ, Thế Thân, Vô Trước… hay không?
Tại sao các Tỳ-kheo Nam Tông không tin các ông luận sư Bà-la-môn Đại Thừa nhưng lại dễ dàng tin vào luận sư Bà-la-môn của mình như vậy?
Có thể chăng một luận sư Bà-la-môn với những chú giải đầy thâm ý và ngụy trá, không theo đúng ý Phật lời Kinh như trên lại có thể “chấn chỉnh Phật giáo suy đồi ở Tích Lan”?
Hay đây cũng chỉ là đòn tuyên truyền của những kẻ gian manh theo kiểu “một đồn mười, mười đồn trăm”, để rồi cứ thế ôm lưng nhau nhắm mắt mà tin giống như điều thường thấy trong tôn giáo?
Nhưng cho dù có thật Phật giáo Tích Lan được Phật Âm Bà-la-môn “chấn chỉnh” chăng nữa, thì nguyên nhân thực tế là do các tu sĩ Phật giáo Tích Lan nói riêng và Phật giáo Nam Tông nói chung đã không chịu cảnh giác thận trọng theo tinh thần bài kinh dạy cho dân Kalama.
Họ đã không y chỉ sát những lời dạy đích thực của Đức Phật trong kinh điển Nikāya nên mới bị mê mờ tin theo truyền thuyết, tin đồn khiến không còn ai tỉnh táo để nhận diện cái “bộ mặt thật xưa nay” của các du sĩ ngoại đạo. Để rồi chẳng ai có thể vạch trần âm mưu thủ đoạn của một luận sư Bà-la-môn gián điệp nằm vùng như Phật Âm Bà-la-môn mà thôi.
Nếu Phật giáo ở phương Bắc đã bị các tổ sư gián điệp gốc Bà-la-môn chui vào phân hóa phá hoại, chẳng lẽ Phật giáo Nam Tông sẽ bất khả xâm phạm với họ? Trái lại là đằng khác, họ phải “nhổ cỏ tận gốc”, phải chặn nước tận nguồn và đây chính là lý do vì sao một luận sư khét tiếng chống các phái ly giáo khỏi Bà-la-môn như Phật Âm lại sẵn sàng đóng vai gián điệp, xông vào nằm vùng trong Phật giáo.
Nếu mọi người biết rõ như vậy, cảnh giác như vậy, làm sao một ông Bà-la-môn như Phật Âm với những chú giải phi lý, với những luận giải không y chỉ đúng ý Phật lời Kinh lại có thể “chấn chỉnh Phật giáo” cho được.
Hẳn, một vị có đẳng cấp Bà-la-môn như Phật Âm cũng thừa biết: dù ông ta có đứng ngoài Phật giáo hô hào luận giải tới cả trăm năm cũng chẳng ai thèm nghe.
Thế nhưng Phật Âm Bà-la-môn chỉ cần cải trang nằm trong chính Phật giáo và tự “thần thánh hóa” chính mình, tức khắc ông ta sẽ được những kẻ cả tin tôn thờ kính ngưỡng. Và nhờ vậy, Phật Âm mới có dịp “thủ tiêu những kinh điển mà Ngài cho là không đúng đường lối của Đức Phật”.
Căn cứ vào số thứ tự trong Tương Ưng Bộ và Kinh Tập (Sutta Nipata) sẽ thấy các tạng kinh này đã bị bỏ bớt rất nhiều bài kinh.
Thậm chí ngay cả một chương Tương Ưng về Thiền rất quan trọng cũng đã bị xóa bỏ gần như trống rỗng, chỉ còn sót lại các tựa đề.
Riêng đối với Trung Bộ hoặc Trường Bộ việc thủ tiêu các bài kinh rồi đánh số lại không có khó khăn gì.
Tình cảnh này của Phật giáo chẳng khác nào thảm cảnh của vua An Dương Vương: giặc ở ngay trước mặt mình nhưng vẫn không hay biết, bị tước lấy nỏ thần thật mà vẫn không hay, để rồi khi biết được sự thật thì hỡi ơi quá trễ.
Vì sao nên nỗi? Vì chỉ có cả tin ngây thơ tin bừa tín bậy cho nên một kẻ nội gian gián điệp như Trọng Thủy mới thực hiện được nhiệm vụ của mình. Ngay trong thời Phật, các Bà-la-môn đã biết đóng vai Triệu Đà – Trọng Thủy, chẳng lẽ một ngàn năm sau, Phật Âm Bà-la-môn lại chịu thua kém các tiền bối của mình?
Còn đối với các bài kinh của Phật, “Trọng Thủy” Phật Âm không thể thủ tiêu được thì sao?
Đương nhiên một luận sư Bà-la-môn “đã hoàn tất việc huấn luyện theo phái ‘vijja’ và ‘sippa’, và có kiến thức rất sâu rộng về ba phái Phệ-đà” thừa biết: chỉ còn một cách duy nhất là phải dùng thủ đoạn “lấy chính vũ khí của người để giết người”, tức là dùng chính những khái niệm của Đạo Phật rồi luận giải vẽ vời thêm bớt, khéo léo xuyên tạc ngấm ngầm để dẫn dắt những người cả tin lao vào những mê lộ khác trái ngược với tinh thần Kinh - Luật gốc.
Kiểu chú giải “Bài kệ vừa dứt, nữ Dạ Xoa chứng được quả Tu Đà Hoàn” hoặc “kệ ngôn vừa dứt, năm trăm vị Tỳ-kheo đều đắc quả A-la-hán” là những ví dụ điển hình cho thủ đoạn này.
Hơn thế nữa, khi mọi người hiểu sai hoặc tin rằng chánh Kinh của Phật chỉ là “thường pháp”, là “tục đế”; còn tạng Luận Vi Diệu Pháp của các luận sư đệ tử mới là “chân nghĩa đế” thì xem như chánh Pháp của Đức Thế Tôn đã bị “thủ tiêu” mất rồi!
Cứ nghe các giảng sư Nam Tông đăng đàn sẽ rõ. Mười vị thuyết pháp đã hết chín ông đem Luận Vi Diệu Pháp hoặc chú giải của Phật Âm Bà-la-môn ra tuyên truyền. Còn lấy kinh Nikāya ra hỏi, không ít vị đã phải im lặng, lảng tránh hoặc lý giải loanh quanh.
Khi một thiền sư Theravada nổi tiếng đã viết và phổ biến rộng rãi: “Không có giáo lý nào mà nói rằng: Do thọ diệt, ái cũng diệt”(?); khi một trưởng lão Nam truyền thâm niên không hề biết trong chánh Kinh Nikāya có một câu kinh Đức Phật nhắc đến hằng trăm lần về Tứ thiền(!); khi một thượng tọa tiến sĩ Nam Tông ca hát trong lúc thuyết pháp (!)… thử hỏi còn ai là người thừa tự Pháp và Luật của Đức Thế Tôn đây?
Đáng hổ thẹn thay và cũng đáng sợ hãi thay cho những đức tin mê muội! Nhưng nghĩ cho cùng, đó chính là hậu quả tất yếu của một truyền thống tin rằng Kinh - Luật của Phật chỉ là thường pháp, là tục đế, không phải chân nghĩa đế; còn luận tạng của các luận sư mới là Diệu Pháp, là chân nghĩa đế!
Rõ ràng, chỉ khi nào một luận sư Bà-la-môn như Phật Âm bất chấp giới luật Ba La Di, tự đánh bóng mình để hóa thân làm “Thánh Tăng” của Đạo Phật, còn các đệ tử Phật lại ngây thơ dễ tin theo ngay “tiếng của Phật”, lúc ấy “tiếng của Phật” mới có thể nhét cả một “Truyền thống Nguyên thủy” vào trong cái-giỏ-thánh-điển-luận-giải của “ngài”.
Chừng nào những giáo lý “lai Bà-la-môn” còn được xương minh tuyên truyền đến độ nhiều người tin rằng Luận tạng của các luận sư mới thật là cao siêu, là chân nghĩa đế, và nó còn vi diệu hơn cả chánh kinh của Phật vốn chỉ là thường pháp, là tục đế; chừng đó xem như Phật Âm Bà-la-môn vẫn còn thành công trong việc chống các phái ly khai khỏi đạo Bà-la-môn ngay trong lòng Phật giáo Nguyên thủy phía Nam.
Qua hàng thế kỷ, luận Vi Diệu Pháp cũng như Duy Thức học của các luận sư đã được không ít các tu sĩ Phật giáo, cả Bắc Tông lẫn Nam Tông, xem là pháp... vi diệu, là duy trí thức. Thế nhưng, dù có tìm suốt bảy kiếp cũng không thể chứng minh được các kiến thức ấy giúp con người diệt khổ cụ thể như thế nào.
Cả một mớ các khái niệm được phân tích theo kiểu “chẻ sợi tóc làm tư, chia cây tăm làm tám” ấy đã được nhiều người thay nhau thuyết giảng, viết lách qua hàng bao thế hệ. Từ vị trưởng lão thâm niên cho đến chú sadi mới nhập đạo, tất cả đều biết tán tụng chú giải dạy như thế này, luận giải nói như thế kia, trong khi chính bản thân họ cũng không biết chú giải nào giúp diệt tham, diệt sân, diệt si một cách thiết thực hiện tại.
Thậm chí, như đã nói ở trên, họ còn bắt chước các luận sư gián điệp xem thường những lời dạy đích thực của chính Đức Thế Tôn trong kinh điển là thường pháp, là tục đế, không phải chân nghĩa đế; và chỉ có tạng Luận của các ông học trò của Phật mới là siêu thế, là vi diệu, là cao siêu hơn cả Kinh và Luật của Phật (?)
Xét cho cùng, những Tỳ-kheo tin vào Phật Âm có hơn gì các tu sĩ không “nguyên thủy” khác. Họ cũng nhắm mắt chạy theo những luận giải của các tổ sư gốc Bà-la-môn của mình. Họ cũng đã không còn lưu tâm nghiên cứu, học tập, thọ trì cẩn thận chánh kinh của Phật để rồi phải trở thành những kẻ “mù kinh điển gốc”.
Họ cũng đã vô tình ôm giữ chặt một góc con voi Bà-la-môn cho mình mà cứ tưởng đó là con sư tử Phật Pháp. Trong đó, đã có những kẻ rờ rẫm được phần đuôi voi, hăm hở chia chẻ mớ lông đuôi voi một cách sành sõi để rồi lớn tiếng khoe khoang với nhau về hàng trăm, hàng ngàn “sợi lông” tâm sở, tâm vương, tâm siêu thế, tâm đáo đại...
Đối với nhiều người, Phật Pháp giờ đây bao gồm một mớ đầy ắp những khái niệm “tâm lý cao siêu vi diệu” chẳng khác nào như một... cái chổi chà được bó kết tinh vi. Thế nhưng, cái chổi chà còn dùng để quét nhà, chứ “mớ lông đuôi voi” của các luận sư Bà-la-môn đã chẳng giúp được gì cho ai trong việc diệt tham, diệt sân, diệt si, tránh khổ, thoát khổ. Có chăng cũng chỉ là những ảo tưởng mù quáng, những ngụy biện thiếu trung thực, những luận giải quanh co xuất phát từ những tư tưởng cố chấp bảo thủ cho “truyền thống” và “tổ sư” của mình mà thôi.
Chính Đức Thế Tôn đã dạy “Pháp thiết thực hiện tại, không có thời gian”, vì thế những ai đã chứng ngộ được pháp siêu lý của các luận sư hãy lên tiếng chứng minh cụ thể: Vi Diệu Pháp hay Duy Thức học của các luận sư thiết thực hiện tại như thế nào? Chúng không có thời gian như thế nào? Hay ngược lại, họ phải mất hàng năm trời mới học thuộc lòng cả một mớ các khái niệm mơ hồ, trong khi tham-sân-si, mạn, kiến, nghi… vẫn còn đầy ắp?
Lại nữa, nếu Luận Vi Diệu Pháp thực sự trí tuệ, hẳn nó phải gắn liền cột chặt với Thánh Giới Luật, người dạy Vi Diệu Pháp phải gương mẫu về giới hạnh. Chính Đức Thế Tôn đã xác chứng cho Bà-la-môn Sonadanda: “- Thật như vậy, này Bà-la-môn. Này Bà-la-môn, trí tuệ được giới hạnh làm cho thanh tịnh, giới hạnh được trí tuệ làm cho thanh tịnh. Chỗ nào có giới hạnh, chỗ ấy có trí tuệ; chỗ nào có trí tuệ, chỗ ấy có giới hạnh. Người có giới hạnh nhất định có trí tuệ; người có trí tuệ nhất định có giới hạnh. Giới hạnh và trí tuệ được xem là tối thắng ở trên đời...” (Kinh Sonadanda, số 4, DN1)
Theo lời dạy trên, trí tuệ và giới hạnh phải song hành như hai chân của cơ thể người. Nếu thực sự luận Vi Diệu Pháp của các Luận sư có trí tuệ vi diệu, hẳn nó phải giúp những người thọ trì có giới hạnh vi diệu. Thế nhưng, mọi người hãy quán sát kỹ các luận sư Vi Diệu Pháp, hay đọc lại các sách luận của họ để biết giới hạnh có được lưu ý như thế nào?
Nếu luận Vi Diệu Pháp cao siêu đến độ không cần giới hạnh, thời một kẻ tiểu nhân lừa đảo cũng có thể dạy “pháp vi diệu” được, cần gì các luận sư? “Trí tuệ cao siêu” mà không có giới hạnh đi kèm, thực chất nó chỉ là tà tuệ hoặc ác tuệ mà thôi! Do vậy, mọi người hãy quan sát kỹ giới hạnh của các vị dạy Vi Diệu Pháp, và nghiên cứu sách của họ sẽ tự hiểu chúng có chánh trí tuệ hay tà trí tuệ.
Nếu luận Vi Diệu Pháp cao siêu đến độ không cần giới hạnh, thời một kẻ tiểu nhân lừa đảo cũng có thể dạy “pháp vi diệu” được, cần gì các luận sư? “Trí tuệ cao siêu” mà không có giới hạnh đi kèm, thực chất nó chỉ là tà tuệ hoặc ác tuệ mà thôi! Do vậy, mọi người hãy quan sát kỹ giới hạnh của các vị dạy Vi Diệu Pháp, và nghiên cứu sách của họ sẽ tự hiểu chúng có chánh trí tuệ hay tà trí tuệ.
Đã có một ngôi chùa hàng đầu về luận Vi Diệu Pháp, nhưng nó cũng hàng đầu về khói thuốc lá nhiều hơn khói nhang. Chùa có mười tu sĩ, hết chín vị nghiện thuốc lá nặng. Vị trụ trì nổi tiếng được nhiều người biết đến với mấy chục năm thuyết giảng, viết nhiều sách về Vi Diệu Pháp, cùng tật nghiện hút thuốc lá. Các đệ tử của ngài hằng ngày bên cạnh ly cà phê, điếu thuốc lá, họ thường tranh cãi với nhau về “pháp vi diệu” đến độ không ít lần đòi đánh nhau. Vị quản chúng thường xuyên tiếp phụ nữ trong phòng riêng, lúc Tăng xá không có ai, mỗi tuần vắng chùa một đêm. Tất cả đều vô tư, vô Tàm, vô Quý!
Hội chúng đó không có ai biết tự hỏi: nếu Vi Diệu Pháp thật sự cao siêu vi diệu, tại sao nó không giúp các vị vượt được qua một điếu thuốc lácỏn con, không giúp họ thấy hổ thẹn khi vi phạm giới hạnh? Một điếu thuốc lá nhỏ nhoi còn không thắng nổi, thử hỏi “pháp vi diệu” còn có lợi ích gì cho ai? Nó cao siêu vi diệu ở chỗ nào? Ngoài đời nhiều kẻ phàm phu còn chiến thắng được thuốc lá, một tu sĩ theo đạo ly dục, diệt dục lại không thắng được, thử hỏi những cám dỗ dục ái nguy hiểm khác làm sao vượt thắng được? làm sao thanh tịnh được giới hạnh? Các vị còn mong gương mẫu với ai, dạy đạo cho ai? Những người có trí tuệ, có đức hạnh có dám tin vào những “Vi diệu tử” kiểu ấy?
Đã có một “Vi diệu tử” gân cổ bảo vệ cho câu chuyện “Vi Diệu Pháp từ trên trời” rằng ở Ấn Độ vẫn còn hai dấu tích chân thang in trên đá khi Đức Phật từ cung trời Đao Lợi trở xuống thế gian. Trời ạ! Thế gian cũng có nhiều những đầm “Tiên”, ao “Thánh”, dấu “bàn tay”, “bàn chân” của người khổng lồ cùng những câu chuyện truyền thuyết mê li do thế gian tưởng tượng. Vả lại, vàng với kim cương người ta còn giả được, vậy mà giữa thời đại @ này vẫn có người còn tin vào ba dấu tích bá vơ thiên địa!
Vị “Vi diệu tử” ấy vẫn hàng ngày ngồi dịch sách với đầy dẫy lỗi chính tả, ngữ pháp, bên cạnh ly cà-phê, điếu thuốc lá, miệng nhóp nhép ăn vặt. Không ít lần người ta lại thấy vị ấy ngồi thích thú đếm tiền từ “Bát hội, Trai Tăng” hoặc từ việc tụng đám ma, đám giỗ. Một nghiệp căn như vậy có ca ngợi và bảo vệ cho luận Vi Diệu Pháp từ trên trời của các luận sư, âu cũng không có gì khó hiểu!
Đến đây, cũng cần nói rõ thêm cho các “Vi diệu tử” được biết, trong nhiều bài kinh Nikāya, điển hình như bài kinh Nghĩ Như Thế Nào (số 103, Trung Bộ 3), Đức Phật đã dùng khái niệm “Abhidhamma” (Thắng pháp, A-tỳ-đàm) để gọi chung các hệ thống Bốn Như Ý Túc, Bốn Chánh Cần, Bốn Niệm Xứ, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Giác Chi và Tám Chánh Đạo.
Còn các vị Thánh Tăng A La Hán đương thời Đức Phật, với giới hạnh thanh tịnh, với tri kiến thanh tịnh và có trí tuệ siêu phàm đều nhận thức, thọ trì và giáo giới theo Hệ thống 37 Phẩm Trợ Đạo này. Bởi lẽ“Abhidhamma” mới thực sự là thắng pháp cao siêu vi diệu hơn hẳn các pháp thế tục khác.
Chính vì thế, trong bài kinh Thanh Tịnh, số 29, Trường Bộ 2, Đức Thế Tôn đã căn dặn nhiều lần: “Này Cunda, thế nào là những pháp do Ta tự chứng tri và tuyên bố cho các Ngươi, tất cả các Ngươi hãy hội họp lại và tụng đọc lại, chớ có cãi lộn nhau, nhưng hãy so sánh các nghĩa với nhau, các câu với nhau, để cho phạm hạnh này được tồn tại lâu dài, được an trú lâu dài, vì hạnh phúc cho muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì an lạc cho chư Thiên và cho loài Người?
Những pháp ấy là Bốn Niệm Xứ, Bốn Chánh Cần, Bốn Như Ý Túc, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Giác Chi, Tám Thánh Đạo.
Này Cunda, những pháp ấy do Ta tự chứng tri và tuyên bố cho các Ngươi, tất cả Ngươi hãy hội họp lại và tụng đọc lại, chớ có cãi lộn nhau, nhưng hãy so sánh các nghĩa với nhau, các câu với nhau, để cho phạm hạnh này được tồn tại lâu dài, được an trú lâu dài, vì hạnh phúc của muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì an lạc cho chư Thiên và cho loài Người”.
Một tu sĩ khi đã hiểu rõ hệ thống chánh pháp hơn hẳn này cũng sẽ xác tín một cách chắc chắn rằng không thể có một pháp luận nào, của bất cứ một Tổ sư nào, lại có thể cao hơn hệ thống pháp môn này của Đức Thích Ca Mâu Ni. Nếu có chăng, đó chính là do các tu sĩ đã không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh nên không có trí tuệ để hiểu rõ Thắng Pháp gồm 37 Phẩm Trợ Đạo này thực sự là những pháp cao siêu như thế nào. Chính vì không có trí tuệ và giới hạnh, nên cả tín tin luôn những kẻ ác hiểm đời sau, dễ tin luôn chuyện vi Diệu Pháp từ trên trời rơi xuống của họ (?)
Đến đây hãy nêu vài câu hỏi để mỗi người tự kiểm chứng. Trong bài kinh Pháp Môn (S.v,108), Đức Phật khi nghe các Tỳ-kheo phàn nàn về việc các ngoại đạo sư ăn cắp pháp, họ cũng dạy năm triền cái, cũng nói đến Bảy Giác Chi, Ngài đã dạy như sau:
“-- Ðược nói vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải trả lời với các du sĩ ngoại đạo như sau: "Này chư Hiền, có pháp môn nào, do pháp môn ấy, năm triền cái được trở thành mười, Bảy Giác Chi được trở thành mười bốn?" Ðược đáp như vậy, này các Tỷ-kheo, các du sĩ ngoại đạo sẽ không thể cắt nghĩa được, sẽ rơi vào khó khăn. Vì sao? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, vấn đề này vượt ngoài giới vức của họ. Này các Tỷ-kheo, Ta không thấy một ai ở Thiên giới, thế giới này, ở Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người có thể làm thỏa mãn tâm với câu trả lời cho những câu hỏi này, ngoại trừ Như Lai, hay đệ tử Như Lai, hay những ai được nghe từ hai vị ấy.”
Cũng vậy, những ai cho tạng Luận Vi Diệu Pháp là cao siêu vi diệu nhất, là chánh Phật Pháp, các luận sư là con chánh tông của Phật Thích Ca Mâu Ni, đương nhiên họ cũng thừa cao siêu để trả lời thấu đáo các câu hỏi sau đây:
- Thế nào là “năm triền cái được trở thành mười”?
- Thế nào là “Bảy Giác Chi được trở thành mười bốn”?
- Thế nào là Bốn Niệm Xứ viên mãn dẫn đến Bảy Giác Chi viên mãn? Bảy Giác Chi viên mãn dẫn đến Minh và Giải thoát? (Kinh Kundaliya, S.v.73)
Tất nhiên, trong bài kinh Pháp Môn, Đức Thế Tôn cũng dạy cách quán nội ngoại pháp năm triền cái và Bảy Giác Chi, nhưng để phân định chánh tuệ hay tà tuệ, chánh pháp hay tà pháp, vi diệu hay vi dỏm, các “vi diệu tử” hãy vận dụng trí tuệ vi Diệu Pháp trả lời thêm các câu hỏi thiết thực sau đây:
- Thế nào là nội dục tham? Ngoại dục tham? Nội sân? Ngoại sân? Nội hôn trầm - thụy miên? Ngoại hôn trầm - thụy miên? Nội trạo hối? Ngoại trạo hối? Nội nghi? Ngoại nghi? Giỏi luận Vi Diệu Pháp nhưng không rõ biết năm pháp làm muội lược trí tuệ, liệu những kiến thức về luận Vi Diệu Pháp có giúp trí tuệ được thanh tịnh? Phạm hạnh được tròn đủ để từng bước đi tới giải thoát?
- Thế nào là nội Niệm giác chi? Ngoại Niệm giác chi? Thế nào là Trạch pháp giác chi theo nội pháp? Trạch pháp giác chi theo ngoại pháp? Thế nào là thân tinh tấn? tâm tinh tấn? Thế nào là Hỷ có tầm có tứ? Hỷ không tầm, không tứ? Thế nào là thân khinh an? Tâm khinh an? Thế nào là định có tầm có tứ? Định không tầm không tứ? Thế nào là Xả giác chi theo nội pháp? Xả giác chi theo ngoại pháp? Vì sao Đức Phật dạy vào đầu đêm, cuối đêm các Tỳ-kheo tu tập Tăng Thượng Tâm phải tu tập các Giác Chi? Tu tập như thế nào? Vì sao các Giác Chi này dẫn đến Minh và Giải thoát? Một hệ thống như vậy có phải là thường pháp, là tục đế, không phải chân nghĩa đế?
Mang danh là đệ tử Phật nhưng không thấy rõ chân pháp, không thấy rõ sự vi diệu của Thắng Pháp - 37 Phẩm Trợ Đạo, đương nhiên phải rơi vào tà pháp, mắc phải cạm bẫy hý luận của các luận sư ngoại học. Các “cùng tử” cũng sẽ như các ngoại học ăn cắp pháp của Phật, cũng không thể cắt nghĩa được chánh Phật Pháp, cũng sẽ rơi vào khó khăn bế tắc. Vì sao như vậy?
Vì Thắng Pháp - Abhidhamma - 37 Phẩm Trợ Đạo vượt ngoài tầm vức của các vị. Các vị chỉ thừa tự y áo, thừa tự tên gọi, thừa tự pháp giả pháp dỏm chứ không thừa tự chánh Pháp của Phật, chỉ là những người con ngây thơ đeo mang những tư tưởng phản bội, tự đốt nhà mình mà không biết.
Đến đây, cũng phải nhắc nhở thêm cho các tín đồ “Vi Diệu Pháp” và “Duy Thức tông” được biết: trong Tăng Chi 4, chương 10, bài kinh Ajita, số 116 còn ghi rõ, ngay trong thời Đức Phật đã có du sĩ ngoại đạo Ajita đến giữa Đức Phật và chúng Tăng khoe khoang rằng người bạn của ông ta biết đến năm trăm tâm xứ.
Đức Thế Tôn đã không thèm quan tâm trả lời, Ngài chỉ quay sang hỏi các Tỳ-kheo: “- Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thọ trì những căn bản địa của bậc Hiền trí không?”
Các luận gia sành sõi Vi Diệu Pháp và Duy Thức học có biết hàng trăm tâm xứ “tâm lý cao siêu” của mình khác hay giống với năm trăm tâm xứ của các ông Bà-la-môn như thế nào không?
Và dù chúng có giống hay khác chăng nữa, tại sao Đức Phật không thèm trả lời Ajita mà lại hỏi các Tỳ-kheo về “căn bản địa của bậc Hiền trí”?
Nếu các tông đồ Luận tạng dù có căn cứ vào những kiến thức cao siêu của Vi Diệu Pháp và Duy Thức học vẫn không trả lời được các câu hỏi trên, họ cần đọc kỹ lại bài kinh này để thấy những điều tiên tri, răn dạy của Bậc Chánh Biến Tri đã xẩy ra hoàn toàn đúng như thực.
Thật vậy, các tín đồ Luận tạng cũng đã bị các luận sư gốc Bà-la-môn, con cháu của người bạn Ajita, đem năm trăm tâm xứ của họ ra “hù dọa”, lòe bịp, kích thích, kích động đến độ phải nức nở lớn tiếng khen ngợi các Tổ sư, Luận sư của mình: "Vị Tôn giả thật là một Hiền trí! Vị Tôn giả thật là một Hiền trí!", Phật Âm quả thật là một thánh tăng! Long Thọ quả thật là một Bồ-tát v.v… và v.v…
Các tín đồ Luận tạng và Duy Thức học cũng đã trở thành một thành viên của hội chúng phi pháp khi không còn biết phân biệt đâu là Pháp, đâu là phi pháp; đâu là mục đích, đâu là phi mục đích.
Phi pháp ấy là gì? Phi mục đích ấy là gì?
Rõ ràng cái “Diệu Pháp duy trí thức” mà họ đang ca ngợi, cho dù biết được năm trăm tâm xứ hay năm triệu tâm xứ hay vô lượng tâm xứ chăng nữa, nhưng có tâm xứ nào chỉ dạy cách diệt tận tham-sân-si, đoạn trừ năm triền cái, cắt tận các kiết sử để thoát khổ một cách cụ thể thiết thực hiện tại không?
Có “Duy Thức vi diệu” nào dạy cho họ biết cách ly dục để ly khổ?
Làm thế nào diệt dục để diệt khổ? Và nếu không làm được như vậy thời chúng có lợi ích gì cho ai?
Và điều phi mục đích ấy liệu có đáng để cho một người có trí tuệ mất công tìm hiểu thọ trì?
Với những điều phi pháp, phi mục đích và không biết dựa trên căn bản của một bậc Hiền trí như vậy, những bậc thiện tri thức có cần phải quan tâm, đàm đạo, học hỏi hay không?
Vị hiền trí nào hiểu được những điều này tất cũng hiểu được lý do vì sao Đức Thế Tôn đã không thèm trả lời du sĩ ngoại đạo Ajita, dù chỉ một từ.
Có thể nào một bậc Thế Gian Giải đã biết như vậy, thấy như vậy, dạy như vậy lại phải “mượn” năm trăm tâm xứ của một ông Bà-la-môn đem lên cung trời Đao Lợi thuyết giảng cho mẹ Ngài, để rồi sau đó tạo cơ hội cho các ông luận sư đem “bình cũ rượu mới” vào trong Đạo Phật?
Rõ ràng chỉ có những đầu óc đầy ắp tưởng tri ấu trĩ mới có thể nghĩ và tin những điều nhảm nhí như vậy.
Bởi lẽ, chỉ có cách dựng nên câu chuyện hoang đường từ trên hư không như vậy, các tổ sư gốc Bà-la-môn mới có thể dùng chính bình thuốc “Pháp Vi Diệu” của Đức Phật để đổ vào đó thứ rượu mới với “năm trăm tâm xứ” của họ, nhằm làm say sưa các Tỳ-kheo “duy trí thức” và duy tà tín tin theo mình, bắt các vị con Phật nằm mê man trong cái-giỏ-luận-tạng của các “ngài”.
Có thế mới khiến cho các đệ tử Phật quay lưng với những lời dạy đích thực của Đấng Chánh Đẳng Giác, xa rời chính những giáo pháp thiết thực của Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri.
Các luận sư Bà-la-môn bắt buộc phải làm như vậy, bởi lẽ chỉ có chính những “con trùng” trong lông sư tử mới có thể hủy hoại được “thịt sư tử”. Cho nên, một khi các luận sư ngoại học quyết tâm phá hoại Đạo Phật, đối với họ việc trở thành những “con trùng sư tử” không có gì khó khăn, và từ đó tạo ra các “con trùng tín ẩu” cũng dễ như trở bàn tay!
Mong rằng các đệ tử Phật hãy ý thức rõ điều này để không vội tin tưởng một chiều vào các luận giải, chú giải cùng với những câu chuyện dễ duôi nhưng thâm độc của các ông luận sư Bà-la-môn gián điệp nằm vùng nguy hiểm.
Có như vậy các vị mới thoát khỏi cái mê hồn trận siêu hình tưởng vớ vẩn, mới không rơi vào hắc pháp, không quay lưng với chánh Kinh – chánh Luật, không xa rời những lời dạy vô giá của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni.
Có thể ví các chú giải của Bà-la-môn Phật Âm và tạng Luận - Vi Diệu Pháp như một kiểu “Con ngựa thành Troy” trong Phật giáo Nam Tông.
Thật vậy, một khi các Tỳ-kheo nào đã mất cảnh giác, không còn dựa trên căn bản địa của một bậc Hiền trí, một chiều tin tưởng và chấp nhận tạng Luận với hàng trăm tâm xứ; như vậy là họ đã tự mở rộng cửa, kéo đưa “con ngựa gỗ” chết người vào trong thành trì của mình.
Và khi họ tin rằng năm trăm tâm sở, tâm vương, tâm đáo đại, tâm hiệp thế… trong Vi Diệu Pháp mới thật sự cao siêu vi diệu, còn lời Phật trong kinh gốc chỉ là tục đế, là thường pháp, điều này có nghĩa chính họ đã vô tư để cho năm-trăm-chiến-binh-sát-thủ từ trong bụng con ngựa gỗ thoải mái lao ra kết liễu sinh mạng tu tập theo đúng chánh đạo của họ.
Đáng buồn hơn, trong khi nhân dân thành Troy trước khi chết đã kịp nhận ra âm mưu thâm độc của kẻ thù và không phải vì thế mà họ bị đọa vào địa ngục; ngược lại những ai tin tưởng Phật Âm Bà-la-môn và con ngựa tạng Luận của các luận sư gián điệp, cho đến tận khi lâm chung vẫn còn ngây thơ thích thú vinh danh tà kiến cùng tổ sư của mình. Hẳn nhiên họ có thể quên lời dạy của Phật, vui mừng ôm lấy ảo tưởng cho chính mình, nhưng địa ngục không bao giờ quên và nhận lầm những kẻ ôm giữ tà kiến như họ.
Trong chánh Kinh – chánh Luật đã có rất nhiều những lời cảnh giác về thủ đoạn gián điệp của những kẻ ngoại học ngay khi Đức Phật còn tại tiền, như trường hợp của sa môn giả hiệu Migalandika, nhóm Lục sư ngoại đạo (tạng Luật), Bà-la-môn Uttara “trong bảy tháng theo sát Thế Tôn như bóng không bao giờ rời hình” Kinh Brahmāyu, Trung bộ 3), hay như du sĩ ngoại đạo Potaliputta, các Bà-la-môn Sonakāyana, Sanjaya, Vassakāra…
Họ đều là những kẻ ngoại học thâm hiểm cũng biết giả danh Phật để lừa gạt đệ tử Phật, cũng biết xuyên tạc những lời của Phật để tuyên truyền tà thuyết. Lịch sử thường lập lại và sự phá hoại Đạo Phật thì thời nào cũng có.
Vì vậy, ghi nhớ những bài học lịch sử trong kinh điển sẽ không bao giờ thừa!
Chính vì thế, chỉ có những ai biết trân trọng ghi nhớ những lời dạy đích thực của Đức Thích Ca Mâu Ni trong kinh tạng Pāli và biết thận trọng đem so sánh, đối chiếu chúng với những luận giải của Phật Âm Bà-la-môn, họ mới có thể phát giác những thâm ý độc hại của “ngài” Buddhaghosa, kẻ khét tiếng trong việc chống các phái ly giáo khỏi Bà-la-môn giáo.
Bên cạnh đó, về phần mình, các tu sĩ Phật giáo phải ý thức rõ ràng về những sợ hãi đã được Đức Thế Tôn tiên tri trong chánh kinh Nikāya. Họ phải tích cực tu tập về thân, về giới, về tâm, về tuệ, có vậy mới mong đoạn tận các Pháp ô nhiễm, các Luật ô nhiễm do các luận giải ngụy trá đã sanh khởi ngay trong chính truyền thống được mệnh danh là “Nguyên thủy Theravada” của mình.
Đức Chánh Biến Tri đã khuyến cáo: “Lại nữa, này các Tỷ-kheo, sẽ có những Tỷ-kheo trong tương lai thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập.
Do thân không tu tập, giới không tu tập, tâm không tu tập, tuệ không tu tập, khi họ thuyết về Thắng pháp hay về Quảng thuyết (Trí giải luận), họ rơi vào hắc pháp, không có thể giác ngộ rõ ràng… đối với các kinh tạng do Như Lai tuyên thuyết, thâm sâu, ý nghĩa sâu kín, siêu thế, liên hệ đến không, khi các kinh ấy được thuyết giảng, họ không có nghe, họ không có lắng tai, họ không an trú tâm liễu giải, họ không nghĩ rằng các kinh ấy cần phải học tập, cần phải học thuộc lòng.
Còn những kinh điển do các thi sĩ làm, những bài thi, với những chữ văn hoa, với những câu văn hoa, thuộc ngoại điển do các đệ tử thuyết, trong khi các kinh ấy được thuyết giảng, họ sẽ lắng nghe, họ sẽ lóng tai, họ an trú tâm liễu giải. Các pháp ấy, họ sẽ nghĩ cần phải học tập, cần phải học thuộc lòng. Này các Tỷ-kheo, đây là do Pháp ô nhiễm, nên Luật ô nhiễm; do Luật ô nhiễm, nên Pháp ô nhiễm.
Này các Tỷ-kheo, đây là sợ hãi thứ tư… thứ năm về tương lai, nay chưa sanh khởi, nhưng sẽ sanh khởi trong tương lai, các Thầy cần phải hoàn toàn rõ biết chúng. Sau khi hoàn toàn rõ biết, các Thầy cần phải tinh tấn để đoạn tận sợ hãi ấy” (Kinh Tăng Chi 2, Chương 5, trang 480).
Lời căn dặn rõ ràng là như vậy, thế nhưng với đoạn phụ giải của dịch giả Pháp Minh, phản ảnh đúng với thực trạng của Phật giáo Nam Tông, đã cho chúng ta những câu trả lời đáng sợ hãi.
Kỳ lạ thay, sự vô lý, phi pháp và phi mục đích hiển nhiên như thế lại tồn tại trong Phật giáo “chánh truyền” hàng ngàn năm, kể từ khi “Thánh tăng Phật Âm” không biết mệt mỏi xuôi về phương Nam chuyển đạo xoay đời.
Và đáng tiếc thay, cũng theo Tỳ-kheo Pháp Minh, chỉ có một số chư Tăng ở Thái Lan là biết bắt đầu ngờ vực “Thánh tăng Phật Âm” mà thôi!
Hóa ra lời tiên tri của Đấng Chánh Biến Tri về nguy cơ tiêu hoại của Chánh Pháp sau năm trăm năm đã thực sự đúng với cả một “truyền thống” vốn được mệnh danh và tự hào là “Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada”!
Mọi người phải nhớ lại điều này để cảnh giác trước mọi chú giải, luận giải và kinh-luật-luận sau này của các ông Bà-la-môn gián điệp, chứ không phải bi quan rằng Diệu Pháp của Phật đã hoàn toàn tiêu diệt.
Bởi, trong tạng Luật Pātimokkha đã nói rõ, dù Kinh điển có bị quên lãng, dù Diệu Pháp 37 Phẩm Trợ Đạo không còn được thọ trì đúng đắn, thế nhưng còn tạng Luật Pātimokkha là Giáo Pháp vẫn còn tồn tại:
“Khi Tạng Kinh quên lãng
và luôn Tạng Diệu Pháp,
còn Tạng Luật chưa hoại
Giáo Pháp vẫn tồn tại.”
(Đại Phẩm, phần cuối Chương Trọng Yếu)
Khi Phật dạy kệ ngôn trên, ‘Tạng Kinh’ chính là Chín Tạng Thánh Kinh, bao gồm Khế Kinh, Ứng Tụng, Ký Thuyết, Phúng Tụng, Không Hỏi Tự Nói, Như Thị Thuyết, Bổn Sanh, Vị Tằng Hữu Pháp, và Phương Quảng; còn ‘Tạng Diệu Pháp’ chính là 37 Phẩm Trợ Đạo. Rõ ràng ngày nay hai Thánh Tạng này đã bị lãng quên, không còn được chú tâm truyền thừa tu tập. May mắn thay, tạng Luật Pātimokkha vẫn còn được giữ gìn nguyên vẹn, và vì vậy Giáo Pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn còn tồn tại! Vì sao như vậy?
Vì vị Tỳ-kheo nào biết giữ gìn giới hạnh Pātimokkha thanh tịnh sẽ có tâm thanh tịnh, nhờ có tâm thanh tịnh nên tri kiến thanh tịnh, nhờ tri kiến thanh tịnh nên mới có Đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh (Kinh Trạm Xe). Vị này nhờ có Đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh mới biết rõ đâu là Chánh đạo, đâu là tà đạo đã bị ngộ nhận. Nhờ vậy Chánh Pháp sẽ được nhận chân rõ ràng.
Cho đến khi nào mọi người con Phật biết trân trọng đúng Chín Tạng Thánh Kinh của Phật, biết thực hành giới luật thanh tịnh cùng 37 Phẩm Trợ Đạo, cảnh giác loại trừ những tà kiến phi Phật pháp đã bị ngộ nhận, lúc ấy Giáo Pháp Chính Thống lại được xương minh sáng ngời!
Đến đây, xin lược trích thêm “Lời Giới Thiệu” cho bản in Kinh Trung Bộ 1986, HT Thích Minh Châu đã thẳng thắn bộc bạch: “Càng dịch, chúng tôi càng thấy rõ ác ý của các nhà Bà La Môn đã dùng danh từ "Tiểu Thừa" để gán vào những lời dạy thực sự nguyên thủy của đức Phật và khiến cho các Phật tử không dám đọc, không dám học, không dám tu những pháp môn ấy.
Càng dịch, càng thấy rõ dụng tâm hiểm độc của các vị Bà La Môn, đã khôn khéo xuyên tạc đạo Phật, khiến cho những giáo lý căn bản, những tinh hoa cao đẹp nhất của tư tưởng nhân loại, đã bị những tư tưởng tà giáo xen lẫn, bị ruồng bỏ, bị che dấu, không được biết đến, không được học hỏi tu hành.
Nhưng chân lý bao giờ cũng là chân lý, mặt trời bao giờ cũng là mặt trời. Những lời ba hoa của Ma Vương, các cuộc đo tài của những ngọn đèn lẻ tẻ mù mờ, lời lẽ bập bẹ của những kẻ mới tập tểnh đi vào con đường triết lý, tất cả cũng chỉ là cuồng vọng đen tối, được ánh sáng rực rỡ của chân lý quét sạch”. (Nguồn Internet)
Phải chăng HT Thích Minh Châu của Việt Nam cũng đã “bắt đầu ngờ vực” và “cảm thấy” đáng phải thận trọng với những luận giải trung gian của tổ sư gốc Bà-la-môn Phật Âm?
Phải chăng chính vì không muốn sự “trung gian của các Tổ sư” phá hủy những tinh hoa, tinh túy của những lời dạy nguyên thủy của Phật, nên HT Thích Minh Châu đã không đưa vào các chú giải tai hại của “Thánh tăng Phật Âm” trong các bản dịch kinh tạng Nikāya của mình?
Không còn nghi ngờ gì nữa vì trong “Lời Giới Thiệu” Kinh Pháp Cú của Tỳ-kheo Thích Minh Châu, ấn bản năm 2000, trong đó dịch giả đã tinh tế nhắc nhở như sau:
“Không những 423 bài kệ trong kinh này tóm thâu tinh hoa giáo lý đức Phật, nhưng nhiều bài kệ đã trở thành những lời dạy chính đức Phật thân thuyết, và đọc những bài kệ này, chúng ta cảm nhận như thânnghe chính lời Phật dạy từ hơn 2.000 năm vang lại. Giá trị bất hủ của tập Dhammapada là ở chỗ này và chúng ta cảm thấy không còn sự trung gian của các vị Tổ sư kiết tập kinh điển”.
Với nhận thức như vậy, sau này nếu HT Thích Minh Châu có phát hiện thêm những “ác ý và các dụng tâm hiểm độc của Bà-la-môn Phật Âm” trong Phật giáo Nam Tông, âu cũng là điều dễ hiểu.
Cho nên với các bản dịch Kinh Nikāya tiếng Việt của mình, HT Thích Minh Châu đã không có một dòng chú thích nào của các luận sư đời sau như Phật Âm. Nhờ vậy các thế hệ tu sĩ Việt Nam sau này với các văn bản nguyên gốc ấy đã được đọc Kinh điển Nikāya và tìm hiểu trực tiếp những lời dạy chính thống của Đức Thế Tôn mà không bị chi phối bởi lăng kính mờ đục của các luận sư gián điệp đáng nghi ngờ. Theo đây, họ mới không trở thành đàn nai chạy theo lối rẽ khác do ác ma cố tình tạo ra nhằm dắt đưa họ bước vào tử lộ, đúng như lời khuyến cáo của Bậc Thế Gian Giải trong bài Kinh Song Tầm, Trung Bộ 1.
Chỉ có những ai còn quá ngây thơ, bị những luận điệu ngụy trá của các luận sư ngoại học đánh lừa, họ mới thừa nhận và tôn vinh luận giải của các Tổ sư Bà-la-môn gián điệp ngang hành với Thánh Kinh - Thánh Luật của Đức Phật. Tất cả đã rơi vào nằm trong cái-giỏ-thánh-luận-tạng của các Ma Vương, để rồi quay lưng với những lời di giáo thiêng liêng của Đức Thế Tôn, xa rời Đại giáo pháp quan trọng phải thọ trì.
Những vị này đã quên lời dặn quan trọng của Đức Bổn Sư trước lúc Ngài nhập diệt: “Này các Tỷ-kheo, có thể có Tỷ-kheo nói: "Này Hiền giả, tôi tự thân nghe từ miệng Thế Tôn, tự thân lãnh thọ, như vậy là Pháp, như vậy là Luật, như vậy là lời dạy của vị Ðạo Sư".
Này các Tỷ-kheo, các Ngươi không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của Tỷ-kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu, cần phải được học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật.
Khi đem so sánh với Kinh, đối chiếu với Luật, nếu chúng không phù hợp với Kinh, không tương ứng với Luật, thời các Ngươi có thể kết luận: "Chắc chắn những lời này không phải là lời Thế Tôn, và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo sai lầm". Và này các Tỷ kheo, các Ngươi hãy từ bỏ chúng.
Khi đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật, nếu chúng phù hợp với Kinh, tương ứng với Luật, thời các Ngươi có thể kết luận: "Chắc chắn những lời này phải là lời dạy của Thế Tôn và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo chơn chánh".
Này các Tỷ-kheo, như vậy là Ðại giáo pháp thứ nhất, các Ngươi hãy thọ trì” (Xem thêm các Đại giáo pháp thứ hai, thứ ba, thứ tư trong kinh Đại Bát Niết Bàn, Trường Bộ 1, số 15, trang 618)
Do vậy, những Phật tử tuân theo lời di giáo của Đức Thế Tôn, họ hãy khoan vội tán thán các luận sư Bà-la-môn sau này như Phật Âm, Long Thọ, Thế Thân, Vô Trước… khoan vội tin vào truyền thuyết, hoặc tin đồn về những thánh sư, luận sư này; mà hãy so sánh, đối chiếu kỹ lưỡng những lời của họ với chánh Kinh và chánh Luật của Phật sẽ thấy chúng trái ngược hoàn toàn.
Các Phật tử phải ghi nhớ thêm, trước sau, Phật Pháp cũng chỉ có Hai Tạng THÁNH KINH và THÁNH LUẬT mà thôi. Hai Thánh Tạng đó chính là Chín Tạng Thánh Kinh Điển Nikāya và Tạng Thánh Giới Luật Pātimokkha cần phải y chỉ.
Người Phật tử nào xem tạng Luận của các luận sư gián điệp ngang hàng với Thánh Luật và Chín Tạng Thánh Kinh của Như Lai là đã vô tình rơi vào cạm bẫy của các gián điệp ngoại học, tiếp tay cho các luận sư Bà-la-môn phá hoại Phật Pháp mà không biết.
Thực chất của cái gọi là “Tam tạng Thánh điển: kinh - luật - luận” chỉ là đòn phản gián nguy hiểm của các luận sư Bà-la-môn gián điệp, nhằm thông qua “Tam tạng” giả đưa vào Đạo Phật những nhận thức phá hoại ngầm Phật Pháp ngay từ bên trong.
Các luận sư ngoại học như Phật Âm thừa biết: họ không thể nào công kích trực tiếp Kinh và Luật của Đức Thế Tôn, vả lại làm như vậy sẽ chẳng có Phật tử nào thèm nghe theo họ và còn xa lánh họ thêm.
Chính vì lẽ đó, để có thể tiêu huỷ được Thánh kinh Chánh Pháp, cải biên xuyên tạc Tam Bảo dễ dàng, họ phải chui vào bên trong và tạo ra cái mà họ gọi là “Tam tạng thánh điển”.
Đối với những luận sư Bà-la-môn sừng sỏ như Phật Âm, Long Thọ, Thế Thân, Vô Trước… việc quy y theo Phật giáo đã không có chi phức tạp, thì chuyện hý hoáy thêm những kinh-luật-luận tà vạy cũng chẳng khó khăn gì.
Như đã nói ở trên, chỉ có những ai đã có Giới thanh tịnh, Tâm thanh tịnh, Kiến thanh tịnh mới biết thế nào là Đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh, mới phân biệt đâu là Phật Pháp, đâu là phi Phật Pháp.
Với những vị này, những chú giải - luận giải của các tổ sư gốc Bà-la-môn thực ra chỉ là kiểu “vẽ rắn thêm chân”, “gắn sừng cho thỏ” nhằm làm hoa mắt những đầu óc còn quá non nớt và hèn yếu. Non nớt đến độ không thể tự đứng trên đôi chân của mình, phải mượn cặp nạng gỗ mục nát của kẻ khác đi tìm kiếm Chân lý.
Yếu hèn đến độ đã tự tước bỏ đặc ân được nghe những lời dạy trực tiếp từ chính Đức Thế Tôn trong Kinh - Luật chánh gốc, và phải hiểu nó qua sự thông ngôn của những tay phù thủy nham hiểm.
Những trí-tuệ-vay-mượn này mãi mãi sẽ không chạm được vào Phật Pháp, bởi lẽ Diệu Pháp của Phật “chỉ có người trí mới tự mình giác hiểu”.
Chính vì lẽ đó, mỗi người Phật tử phải biết quay về y chỉ nương tựa duy nhất nơi NHỊ TẠNG - Chín Tạng Thánh Kinh Nikāya và Thánh Luật Tạng Pātimokkha - nếu họ không muốn tự mình bị hủy diệt bởi những ý đồ thâm độc của kẻ khác.
Đương nhiên, đã là người trí thực sự không bao giờ còn kiêu mạn, dám xem thường các bậc trưởng lão chân chánh, giới hạnh thanh tịnh; trái lại phải luôn kính trọng và nghe lời chỉ dạy của các Tỳ-kheo đi trước trên tinh thần mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu phải đối chiếu với Chánh Kinh, phải so sánh với Chánh Luật.
Nếu những lời chỉ dạy phù hợp với Chánh Kinh và Chánh Luật thì phải thọ trì, ngược lại không phù hợp với Chánh Kinh, Chánh Luật thì phải từ bỏ ngay, cho dù vị trưởng lão có là luận sư nổi tiếng đến đâu chăng nữa, hoặc vị ấy có viết được bao nhiêu đầu sách cũng vậy.
Mỗi người Phật tử cần phải học theo tinh thần tịnh tín của Mahànàma:
“Ở đây, bạch Thế Tôn, nếu có vấn đề pháp sự khởi lên, và một bên là Thế Tôn, một bên là chúng Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, chúng Thiên giới, chúng Ma giới, chúng Phạm thiên giới, quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Bên nào là Thế Tôn, bên ấy con theo. Vì bạch Thế Tôn, đó là tịnh tín của con. Mong Thế Tôn chấp nhận” (S.v,371).
Cũng vậy, cho dù tất tất cả chúng Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, chúng Thiên giới, chúng Ma giới, chúng Phạm thiên giới, quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn (kể cả Phật Âm, Long Thọ, Thế Thân, Vô Trước), chư Thiên và loài Người có hùa nhau nói khơi khơi rằng “Phật Pháp có tam tạng thánh điển Kinh - Luật - Luận, trong đó tạng Luận là vi diệu, là siêu thế, là chân nghĩa đế”; thế nhưng trong chánh Kinh và chánh Luật, Đức Thế Tôn không hề nói như vậy, và trước sau Ngài di giáo chỉ có Kinh và Luật; thì những người học Phật chân chính cũng chỉ y cứ nơi những lời dạy xác đáng này của Đức Thế Tôn mà thôi.
Xin nhắc lại, cho dù tất tất cả “chúng Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, chúng Thiên giới, chúng Ma giới, chúng Phạm thiên giới, quần chúng Sa-môn và Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người” khi so sánh với Đức Thế Tôn còn bị Mahànàma dẹp qua một bên, huống hồ mấy ông luận sư Bà-la-môn gián điệp như Phật Âm, Long Thọ, Thế Thân, Vô Trước… Thử hỏi giữa Đức Phật và các luận sư này, ai đáng tin hơn ai? ai luận giỏi hơn ai? ai trí tuệ hơn ai?
Xin đừng ngây thơ nghĩ rằng chỉ có các Bà-la-môn như Phật Âm, Long Thọ, Thế Thân, Vô Trước là xuyên tạc Đức Phật. Bên cạnh đó còn có cả những ai tin Phật nhưng lại ôm giữ tà kiến, tin tưởng mù quáng cả các tổ sư gián điệp trong Đạo Phật. Một khi họ tích cực phổ biến, trích dẫn, giới thiệu những chú giải, luận giải của các tổ sư gián điệp, cũng có nghĩa họ đang vô tình tiếp tay cho kẻ xấu xuyên tạc Đấng Như Lai.
Bởi lẽ, chính Đức Thế Tôn đã khuyến cáo: “Này các Tỷ-kheo, có hai hạng người này xuyên tạc Như Lai. Thế nào là hai? Người độc ác với tâm đầy sân hận, và người có lòng tin với tà kiến. Này các Tỷ-kheo, có hai hạng người này xuyên tạc Như Lai” (Tăng Chi 1, chương 2, phẩm Người Ngu).
Với kẻ mang tà kiến, đọa xứ địa ngục hoặc súc sanh không sao tránh khỏi: “Ai rơi vào tà kiến, này Thôn trưởng, Ta nói rằng người ấy chỉ có một trong hai sanh thú: một là địa ngục, hai là súc sanh” (S.iv,306)
Cho nên nếu còn những ai nhắm mắt tin vào các luận sư gián điệp ngoại học để rồi trịch thượng xem chánh Kinh – chánh Luật của Đức Thế Tôn là Tiểu Thừa, là pháp sơ đẳng; hoặc cao ngạo xem nó là thường pháp, là tục đế; cả hai bên đều vô minh ngớ ngẩn, cả tin mê tín như nhau, chứ chắng bên nào hay hơn bên nào! Chắc chắn địa ngục cũng chẳng thèm phân biệt và tha cho những kẻ tà kiến như vậy!
Quả thực, bao giờ cũng thế, nhiệt tình cộng với sự ngu dốt chỉ đem lại sự phá hoại.
Cho nên, hỡi “những người có lòng tin với tà kiến”, xin đừng tiếp tục cả tin mê tín để rồi trở thành những thừa sai vô ý thức, làm tay sai cho những kẻ ác tâm với Phật Pháp, vô tình trở thành những tông đồ bội phản xuyên tạc chính bậc Đạo sư đáng kính, và phủ nhận Chánh Pháp đáng trân trọng của mình mà không biết!
Mong các vị hãy tỉnh thức quay về nương tựa nơi Thánh Giới Luật và Chín Thánh Chánh Kinh của Đức Phật để không bị tà kiến chi phối, khiến phải nhận giặc làm cha, thờ ma phản đạo, đảo chánh thành tà, làm ma địa ngục, không biết đến ngày nào mới thoát ra được.
Nếu có ai thắc mắc vì sao bài viết này lại hủy báng lời nói của “Tỳ-kheo” Phật Âm đến như vậy, những người này cần phải nhận diện cho chính xác: các luận sư Bà-la-môn như Phật Âm, Long Thọ, Thế Thân, Vô Trước... thực chất không phải là các nhà sư Phật giáo.
Họ cũng như các Bà-la-môn Verañja, Sonakàyana, Lohicca, Paccaniikasàta, Pancasàlà, Vassakàra, Sangarava, Assalayana, Uttara, Sanjaya, Vekhanassa, Magandiya, Niganthaputta Saccaka, Ambattha, Subha Todeyyaputta, Bà-la-môn ở Thùna... tất cả đều một lòng chống phá Đức Phật và Đạo Phật theo nhiều cách khác nhau.
Chỉ có điều các luận sư Bà-la-môn sau này đã phát huy tích cực sự chống phá của mình bằng một kế sách thâm hiểm, đó là gian kế “ngoại giao và ly gián”, mà tiền nhân của họ là Bà-la-môn Vassakara đã bộc lộ trong bài kinh Đại Bát Niết Bàn.
Với quỷ kế này những ác ma sẽ giả kết thân hoặc làm chính đệ tử Phật, chui hẳn vào bên trong Đạo Phật để không ai nghi ngờ, từ đó chúng mới dễ bề phân hóa, biến chất, xuyên tạc, vu khống, lũng đoạn, phá hoại Phật giáo ngay từ bên trong.
Thực tế đã cho thấy, những “con ngựa thành Troy” của các luận sư Bà-la-môn đã tỏ ra không hề thua kém với bất cứ vũ khí huỷ diệt nào. Và các luận sư, tổ sư gốc Bà-la-môn đời sau đã thừa tự xuất sắc truyền thống phá hoại Phật Pháp của các tiền bối.
Chính vì thế, nếu phải lớn tiếng mạnh mẽ tố cáo gian kế thâm độc của các ác ma gián điệp nhằm gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh, để cứu nguy những ai ngây thơ tránh khỏi địa ngục vì tà kiến, thử hỏi việc làm này có gì là quá đáng?
Như Đức Thế Tôn đã dạy, người nói Pháp không có tranh luận. Bởi lẽ Phật Pháp là sự thực chứng chứ không phải lý thuyết suông, và Đạo Phật không bắt buộc một ai phải theo mình, cho nên người học Phật không mất thì giờ phải tranh luận.
Thế nhưng trước những sự xuyên tạc Phật Pháp và cố tâm muốn phá hoại Đạo Phật thì cần phải nói cho rõ để bảo vệ cho Chánh Pháp. Đối với các tổ sư gốc Bà-la-môn, không có một từ nào khác chính xác hơn để gọi đích danh họ là “những gián điệp nguy hiểm”.
Và vì vậy đối với các luận sư ngoại đạo thâm độc này, các Phật tử chân chánh cần phải có một thái độ kiên quyết thích đáng. Mọi người phải hoan hỷ với việc “cáo tội trung thực và chỉ trích ác pháp” như của ngài Xá-lợi-phất: “Này Ananda, cáo tội trung thực là Sāriputta. Này Ananda, chỉ trích ác pháp là Sāriputta. Này Ananda, ai là người không ngu si, không ác tâm, không si ám, không loạn tâm, lại có thể không hoan hỷ đối với Sāriputta?” (S.i,63).
Đồng thời, các cư sĩ Phật tử cũng cần noi theo gương cư sĩ Anāthapindika và Vajjiyamàhita, phải tích cực bảo vệ cho Phật pháp, xương minh đúng Chánh pháp, thực hiện theo lời dạy sau đây của Đức Thế Tôn với một tinh thần từ bi trí tuệ:
_ "Lành thay, lành thay, này Gia chủ. Như vậy, này Gia chủ, những kẻ ngu si ấy thường cần phải được bác bỏ với sự khéo bác bỏ nhờ Chánh pháp… Tỷ-kheo nào dầu đã được đầy đủ 100 năm an cư mùa mưa trong Pháp và Luật này, vị ấy cần phải như vậy, thường thường bác bỏ các du sĩ ngoại đạo, với sự khéo bác bỏ nhờ Chánh pháp, như Gia chủ Anāthapindika đã khéo bác bỏ” (Tăng Chi 4, Chương 10, kinh số 93).
_ "Lành thay, lành thay, này Gia chủ. Như vậy, này Gia chủ, những kẻ ngu si ấy thường cần phải được bác bỏ với sự khéo bác bỏ nhờ Chánh pháp… Phàm Tỷ-kheo nào, đã lâu ngày với trần cấu ít trong Pháp và Luật này, vị ấy hãy như vậy bài bác các du sĩ ngoại đạo với sự khéo bài bác nhờ Chánh pháp, như Gia chủ Vajjiyamàhita đã làm” (Tăng Chi 4, Chương 10, kinh số 94).
Đúng như lời dạy của Đức Phật, trong Pháp và Luật của Ngài, chỉ có những Tỳ-kheo nào đã lâu ngày với trần cấu ít nhờ giữ được giới hạnh thanh tịnh, “không ngu si, không ác tâm, không si ám, không loạn tâm”mới có đủ sức mạnh trí tuệ để bứt phá khỏi những bóng ma của các “tổ sư gián điệp”, thoát khỏi những đám mây mù đã bao phủ, phong tỏa tâm linh của các tu sĩ Phật giáo qua hàng bao thế hệ.
Và chỉ có những ai đã nương tựa vững vàng vào những lời dạy của Đức Thế Tôn trong kinh điển Nikāya, mới thấy rõ những thâm ý hiểm độc của những kẻ ngoại học nằm vùng, nhờ vậy họ mới có thể khéo bài bác đúng chánh pháp những ngụy trá hiểm hóc của các luận sư Bà-la-môn như Phật Âm - một “ngòi bút” có một kiến thức sâu rộng về các phái Vệ-đà.
Do vậy, nếu còn sót lại một đệ tử trung thành nào của luận sư Bà-la-môn Phật Âm, còn muốn tiếp tục bao che, bênh vực cho tổ sư của mình, những người này trước khi cầm bút hoặc lên tiếng, hãy đọc lại bài Kinh Trạm Xe, Trung Bộ 1, và nhìn lại giới luật căn bản Bát Quan Trai của mình xem đã thanh tịnh trọn vẹn chưa?
Các vị có dám ăn ngày một bữa để thắng tri năm dục trưởng dưỡng không? Có trong sạch thân tâm để nghiền ngẫm chánh kinh Nikāya của Phật một cách kỹ lưỡng không?
Xin nhắc lại: Một khi giới hạnh chưa thanh tịnh thì tâm chưa thanh tịnh. Tâm chưa thanh tịnh thì tri kiến chưa thanh tịnh. Tri kiến chưa thanh tịnh thì chưa có Đạo – phi đạo tri kiến thanh tịnh, tức tri kiến thấy rõ đâu thực sự là chánh đạo, đâu thực sự là tà đạo một cách chính xác.
Một khi chưa có tri kiến thanh tịnh về chánh Đạo – phi đạo, chưa thể phân định được đúng – sai, chánh – tà, chân – ngụy, và càng không thể nhận ra những ý đồ thâm độc của một gián điệp “uyên bác” “có trí tuệ sâu rộng” như Phật Âm.
Và khi ấy, cho dù “những bàn tay ô nhiễm giới” có cầm bút viết cả một bộ sách để bênh vực cho luận sư Bà-la-môn Phật Âm đi nữa, thì những ngụy biện ấy vẫn là vô giá trị đối với những người có Chánh trí tuệ và Thánh giới luật..
Tóm lại, đã đến lúc: Những gì của ngoại đạo phải trả về cho ngoại đạo! Những gì của Đạo Phật phải trả về cho Đạo Phật!
Những gì của ngoại đạo phải trả về cho ngoại đạo? Đó là những kinh văn ngụy tạo, những giới luật cải biến, những luận giải thâm độc của các luận sư gián điệp ngụy trá tung vào Phật giáo nhằm phá hoại Tam Bảo, tiêu diệt Phật giáo ngay từ bên trong (Và đương nhiên cả câu nói ác ngữ “ông sư già mất dạy” cũng phải trả lại cho các trưởng lão gián điệp - những kẻ thọ hưởng sự cúng dường của Phật tử nhưng lại mang dã tâm muốn tiêu diệt Phật giáo).
Những gì của Đạo Phật phải trả về cho Đạo Phật? Đó là Thánh Giới Luật Pātimokkha và Chín Thánh Tạng Kinh Điển Nikāya. Cả hai Thánh Tạng này phải được xem là chân lý của chánh pháp, là chân nghĩa đế, là căn cứ địa vững chắc cho tất cả các thế hệ Tăng Ni, cư sĩ đệ tử Phật. Hai Thánh Tạng này phải là Đại Giáo Pháp y chỉ duy nhất đúng theo lời di giáo của Đức Thế Tôn.
Khi và chỉ khi mỗi người cư sĩ, tu sĩ đệ tử Phật biết y chỉ nơi Thánh Giới và Thánh Chánh Pháp, có ý thức bảo vệ Phật Pháp, loại trừ phi Phật Pháp; lúc đó Đạo Phật sẽ không còn cảnh phân hóa Đại Thừa, Tiểu Thừa, Mật Tông, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Pháp Hoa Tông... mà chỉ có một Đạo Phật duy nhất: Đạo Phật của Thánh Giới Luật Pātimokkha và của những lời dạy nguyên thủy đích thực của Đức Thế Tôn trong Chín Tạng Thánh Kinh Điển Nikāya.
Được như vậy, Phật giáo năm châu dù có những khác biệt về mầu da, chủng tộc, địa phương, ngôn ngữ, tập quán, căn tánh... nhưng tất cả sẽ chỉ có một Đạo Phật duy nhất, độc nhất và thống nhất. Giống như mọi con sông tuy có ngắn, có dài, có lớn, có nhỏ nhưng tất cả cũng đều xuôi về biển cả.
Mọi người Phật tử trải qua mọi thời đại, vượt qua mọi biên giới, dù căn tánh có khác nhau nhưng phải cùng được hưởng chung một phước báu trong ánh sáng Chánh Pháp chính thống duy nhất như những khi Đức Phật còn tại tiền.
Chắc chắn ngày đó sẽ trở lại! Bởi lẽ đúng như Đức Thế Tôn đã tuyên bố trong bài kinh Đại Không: “Cái gì là lõi cây, cái ấy sẽ đứng vững tồn tại”.
Dù đã có những kẻ ác tâm muốn phá hoại Phật Pháp, dù trải qua biết bao nhiêu những biến động tai ương: chùa chiền bị đập phá, tu sĩ bị sát hại, kinh sách bị thiêu hủy, dù có không ít người mang danh Phật tử nhưng lại quay lưng với chánh pháp; tuy vậy tạng kinh Nikāya và luật Pātimokkha vẫn đứng vững tồn tại cho đến tận ngày nay.
Thời gian có thể qua đi, bao thế hệ có thể thay nhau, bao quốc độ đã không còn; nhưng sức sống mãnh liệt của Thiện Pháp vẫn mãi mãi bất diệt.
Chính vì vậy, ngay từ bây giờ, mỗi người con Phật phải biết trở về với lõi cây Chánh Pháp, tích cực xương minh phổ biến đúng chánh Phật Pháp để cứu cho mọi người, mà cứu cho mọi người cũng là tạo công đức nhân quả hy hữu để cứu cho chính bản thân mình. Đây mới chính là tinh thần từ bi trí tuệ thực sự của mỗi người con Phật.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
________________________
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét