Thứ Sáu, 16 tháng 3, 2018

BỒ TÁT GIỚI VÀ THỦ ĐOẠN DÙNG DAO NGƯỜI ĐỂ GIẾT NGƯỜI


Nguyên văn Bồ-tát giới khinh thứ 47

“47.- GIỚI CHẾ HẠN PHI PHÁP 69
Nếu Phật tử, đều đã có lòng tin thọ giới của Phật, hoặc Quốc vương, Hoàng tử, các quan, bốn bộ đệ tử tự ỷ thế lực cao quý, phá diệt giới luật Phật pháp, lập ra điều luật chế, hạn chế bốn bộ đệ tử của Phật, không cho xuất gia hành đạo, cũng không cho tạo lập hình tượng Phật và Bồ Tát, cùng Tháp và Kinh luật. Lại đặt ra chức quan đổng lý hạn chế tứ chúng, và lập bộ sổ ghi số Tăng. Tỳ Kheo Bồ Tát đứng dưới đất còn bạch y ngồi tòa cao, làm nhiều việc phi pháp như binh nô thờ chủ. Hàng Bồ Tát nầy chính nên được mọi người cúng dường, mà trở lại bắt làm tay sai của các quan chức, thế là phi pháp phi luật. Nếu Quốc vương và các quan có lòng tốt thọ giới của Phật, chớ làm những tội phá Tam Bảo ấy. Nếu cố làm, thời phạm “khinh cấu tội”.”
Chú thích 69 (tr.37):  “Bốn bộ đệ tử: (1) cư sĩ, (2) vợ cư sĩ, (3) đồng nam, (4) đồng nữ. Không cho xuất gia thời là đoạn Tăng bảo; không cho tạo hình tượng, tháp thời là đoạn Phật bảo; không cho tạo kinh luật thời là đoạn Pháp bảo 
Phản bác
Đã có lòng tốt thực sự quy y, thọ giới theo Phật thì làm gì có chuyện phá diệt Tam Bảo, hạn chế bốn chúng, phá hoại Đạo Phật? Nêu điều phi lý này chỉ chứng tỏ kẻ vẽ ra Bồ-tát giới nói bừa viết bậy, không cân nhắc suy tư cẩn thận.
Chú thích 69 giải thích: Bốn bộ đệ tử: (1) cư sĩ, (2) vợ cư sĩ, (3) đồng nam, (4) đồng nữ thật phi lý. Bốn bộ đệ tử này lấy tư cách gì ‘tự ỷ thế lực cao quý, phá diệt giới luật Phật pháp, lập ra điều luật chế, đặt ra chức quan đổng lý’? Bốn bộ đệ tử phải hiểu là bốn hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ.
Thế nhưng ngay cho dù có các vua quan theo Phật có bắt bốn bộ đệ tử như trên làm binh nô, tay sai, phá hoại Tam Bảo, ‘phá diệt giới luật Phật pháp, lập ra điều luật chế, hạn chế bốn bộ đệ tử của Phật, không cho xuất gia hành đạo’ và ‘làm nhiều việc phi pháp như binh nô thờ chủ’ nhưng Bồ-tát giới cũng chỉ ban cho tội nhẹ, không phải tội trọng. Nên cứ việc phá diệt, hạn chế thoải mái!
Rõ ràng Bồ-tát giới kính ác pháp ác luật hơn kính Pháp kính Luật của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, nên mới xem thường các tội như vậy. Ai còn tin Bồ-tát giới mới thực sự là hàng ‘binh nô thờ chủ’.
Đến đây cần phải mở ngoặc nói thêm về danh xưng ‘Bồ-tát’. Trong Pháp và Luật Nguyên thuỷ, danh xưng Bồ-tát được Đức Phật dùng để chỉ các tiền thân của Ngài, và trong kiếp này lúc Ngài chưa chứng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong Kinh và Luật chánh gốc, rất dễ dàng gặp được lời xác chứng rõ ràng này của Đức Thế Tôn: “- Chư Tỷ-kheo, trước khi Ta giác ngộ, khi chưa thành Chánh Giác và còn là Bồ-tát...”.
Chính vì thế, trong các bài kinh Nguyên Thuỷ Đức Phật đã dạy rành rành thế này:
- Khi còn là Bồ-tát vẫn còn các niệm ác bất thiện trong tâm (Kinh Song Tầm, Trung Bộ 1).
- Khi còn là Bồ-tát vẫn còn bị khổ não, sầu bi vì còn ô nhiễm (Kinh Thánh Cầu, Trung Bộ 1).
- Khi còn là Bồ-tát chưa có chứng đắc dù là Sơ thiền hoặc các pháp cao hơn nên chưa thoát khỏi bị dục ái chi phối (Tiểu Kinh Khổ Uẩn, Trung Bộ 1).
- Khi còn là Bồ-tát vẫn còn nhiều những nghi hoặc, hôn trầm - thùy miên, sợ hãi, bị các tưởng sai biệt, thậm chí vẫn còn dâm ý (dutthullam) và ái dục… (Kinh Tùy Phiền Não, số 138, Trung Bộ 3).
Nói tóm lại, Bồ-tát vẫn còn nhiều phàm trần tục lụy, và mới chỉ biết hướng tâm tìm giải thoát chứ chưa có chứng đắc gì cả. Thế nhưng khi xuất hiện trong các tam tạng cải biến, danh xưng Bồ-tát khác biệt hoàn toàn.
Danh xưng ‘Bồ-tát’ trong tam tạng mới là cả một đạo quả siêu phàm (Bồ-tát Đại Thế Chí, Bồ-tát Tự Tại...), có những thần thông phép tắc linh hiển mê hồn để khuất phục kẻ yếu bóng vía (Bồ-tát Quan Âm, Bồ-tát Văn Thù...), có thể phá luật nhân quả công bằng vào địa ngục giải cứu ác nhân (Bồ-tát Địa Tạng, Bồ-tát Phổ Hiền) v.v... và v.v...
Để rồi từ đây một loạt các luận sư Bà-la-môn như Đại Thiên, Mã Minh, Long Thọ, Thế Thân, Vô Trước... cũng được “ai đó” vinh thăng làm Bồ-tát, khiến cho các con Bụt phải sợ hãi kính phục, tin theo sái cổ. Các ngài nói trái cũng nghe, nói sai cũng lạy, nói viển vông mơ hồ cũng phải kính cẩn ‘Nám mô đại Bồ-tát ma ha tát’. Nát cả đám là vậy!
Các Bà-la-môn gián điệp muốn phá Phật Pháp họ phải cạo đầu đắp y như tu sĩ Phật giáo, phải sử dụng chính những danh từ của Phật giáo rồi cải biên xuyên tạc. Có vậy họ mới đánh lừa được những kẻ cả tin ngây thơ, mới đào tạo được những ‘con trùng trong lông sư tử’.
Nói cách khác, đây là thủ đoạn ‘dùng dao người để giết người, dùng vũ khí người để hại người’ mà những tay nham hiểm thường hay áp dụng.
Tóm lại, tất cả những danh xưng ‘Bồ-tát’, đạo quả ‘Bồ-tát’, giới luật ‘Bồ-tát’, luận sư ‘Bồ-tát’, thánh tăng ‘Bồ-tát’ về sau này của Đại Thừa giáo, không phải danh xưng ‘Bồ-tát Gotama’ trong kinh văn Nguyên Thuỷ. Tất cả chỉ là những con dao hai lưỡi, những vũ khí phản hại chính người tin theo.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LUẬT HỌC

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét