Thứ Năm, 19 tháng 4, 2018

KHÔNG TIỀN CÓ PHƯỚC?


Một thời bấy giờ, Hòa Thượng Thích Không Giàu đang trú tại am thất Vui Không Bạc, trong tịnh xá Ưa Không Vàng, thuộc xứ Không Đô La. Cư sĩ Hộ Tự vốn nghe danh ngài đã lâu, nay cơ duyên thuận tiện, cư sĩ không ngại đường xa tìm đến tận nơi vấn đạo. Sau khi đảnh lễ và vấn an vị cao tăng xong, cư sĩ Hộ Tự hỏi:
_ Thưa Hòa Thượng, cư sĩ chúng con cúng dường tiền cho tu sĩ có phước báu như thế nào ạ?
Hòa Thượng Thích Không Giàu mỉm cười:
_ Chỉ có quả báo chứ không có phước báu!
_ Quả báo gì cơ?
_ Cùng đứng chung trước vành móng… nhân quả!
_ Có tội ư?
_ Đúng vậy!
_ Hộ trì tu sĩ sao lại có tội?
_ Kẻ đưa tiền đút lót cho quan tham, có liên đới bị tội hối lộ không?
_ Thưa có. Nhưng bạch ngài, ở đây là tu sĩ chứ không phải quan tham, là hộ Tăng chứ không phải hối lộ?
_ Cũng vậy thôi! Một Tỳ-kheo nhận tiền là vì còn tham tiền, là phá giới, là lủng giới rồi. Tu sĩ tham tiền phá giới có làm tổn hại Tam Bảo không?
_ Dạ, có.
_ Tu sĩ tham tiền phá giới, làm tổn hại cho Tam Bảo có còn phước báu không?
_ Thưa, không.
_ Kẻ tạo điều kiện cho tu sĩ phá giới, mất phước, phá hoại Tam Bảo có chịu tội liên can không?
_ Dạ, có.
_ Cư sĩ cúng dường tiền khiến Tăng Ni phá giới, mất phước báu, còn mình tiếp tay tạo tội. Việc này nên hay không nên làm?
_ Thưa, không nên.
_ Vả lại, nơi nào nặng mùi đồng tiền tanh tưởi, nơi đó hương vị Đạo không còn, tình nghĩa nhạt nhòa. Mới trăm năm sau khi Phật nhập Niết Bàn, các Tỳ-khưu Vajji phá giới nhận tiền. Dân chúng tại đó kháo nhau họ không phải là con Phật.
_ Nhưng nếu vậy, cư sĩ chúng con làm thế nào để hộ trì Tăng Bảo đúng pháp, kiếm được nhiều phước ạ?
_ Câu hỏi này đáng ra phải hỏi trước, ông lại hỏi sau. Ông nghe đây, muốn hộ Chúng độ Tăng đúng pháp để có phước báu to lớn, trước hết, người cư sĩ cũng phải giữ tròn năm giới. Thứ hai: tứ sự cúng dường phải được tạo ra một cách chân chánh, đúng pháp. Thứ ba: cúng dường vị Tỳ-kheo giữ giới hạnh thanh tịnh chắc chắn có phước nhiều hơn vị Tỳ-kheo phá giới. Thứ tư: cúng dường tận tay và với tâm hoan hỷ.
_ Nhưng thưa ngài, thời nay chùa chiền, tịnh xá cần phải có tiền để lo cho Tăng chúng, và chi phí nhiều việc khác như tiền điện, tiền nước v.v...
_ Thời Phật nhiều thứ cũng phải mua, phải trả tiền! Tất nhiên có điều kiện thuận tiện tu hành vẫn tốt hơn; nhưng tu sĩ cứ ôm giữ tiền, lo mấy chuyện đó, họ còn thời gian, tâm trí đâu tu tập Giới-Định-Tuệ. Người cư sĩ giúp Tăng Ni vượt qua mâu thuẫn này, chính là tạo phước báu hộ trì Tam Bảo cho mình.
_ Thưa, chư Tăng Ni không được nhận tiền bạc nhưng cư sĩ chúng con vẫn có thể đóng góp tiền cho quỹ cúng dường Tam Bảo để khi hữu sự cần đến?
_ Đó là tạo phước hợp pháp, vì người tu sĩ giữ giới trọn vẹn, không dính dáng đến tiền bạc!
_ Có vài vị tăng nói rằng vì sợ người khác giữ tiền trốn luôn nên họ phải tự giữ.
_ Không thể dựa vào đây để phá giới của Phật, phải biết “chọn mặt gửi vàng” chứ. Ngay trong thời Phật, vấn đề này đã được Ngài tuyên bố dứt khoát rồi. Chính Ban Hộ Tự và mỗi người cư sĩ phải có trách nhiệm bảo vệ phần phước cúng dường của mình và của hội chúng. Nếu không, Tăng Ni nhận tiền, họ cũng trốn đấy!
_ Thưa, Tăng Ni sợ gì phải trốn và trốn đi đâu?
_ Trốn xuống đọa xứ, xuống địa ngục chứ đi đâu! Ông muốn cộng nghiệp với họ không?
_ Dạ, con hiểu rồi. Cảm ơn Hòa Thượng. Nhờ ngài con mới biết cúng dường đúng pháp và không đúng pháp. Con xin gửi biếu Hòa Thượng… À quên, con đi tìm Ban Hộ Tự đây.
_ Mô Phật! Biết cúng dường đúng pháp sẽ tạo quả lành cho thí chủ!
___________________
LUẬT TRÍCH LỤC
THUYẾT GIỚI ƯNG XẢ ÐỐI TRỊ
(Nissaggiyapācittiye vitthāruddeso)
Trích PHẨM 1: PHẨM Y
“10. Ðức vua, quan lại, Bà-la-môn hoặc gia chủ gởi theo sứ giả số tiềnsắm y, nói rằng: "Ngươi hãy lấy số tiền sắm y này mua y rồi dâng cho vị Tỳ-kheo tên ấy mặc".
Nếu vị sứ giả ấy đi đến vị Tỳ-kheo nọ và nói như sau: "Bạch Tôn giả, số tiền sắm y này được để dành cho Ngài, xin Ngài hãy nhận lãnh số tiền sắm y" vị Tỳ-kheo nọ nên bảo sứ giả rằng: "Này đạo đạo hữu, chúng tôi không thọ nhận tiền sắm y, chúng tôi chỉ nhận lãnh y hợp thời thôi" Nếu vị sứ giả ấy nói với vị Tỳ-kheo nọ rằng: "Có ai là người phục dịch cho Tôn giả chăng?"
Nầy chư Tỳ khưu, vị Tỳ-kheo có nhu cầu y thì nên chỉ ra người phục dịch hoặc người hộ tự hoặc một cận sự nam“Này đạo hữu, đó là người phục dịch của chư Tỳ khưu".
Nếu vị sứ giả ấy giao việc cho người phục dịch kia rồi, bèn đến vị Tỳ-kheo nọ mà nói như sau: "Bạch Tôn giả, người phục dịch mà Ngài đã chỉ ra, người ấy được tôi giao việc rồi, Tôn giả hãy đến họ và họ sẽ dâng y hợp thời cho Ngài mặc".
Nầy chư Tỳ-kheo, vị Tỳ-kheo có nhu cầu y nên đến người phục dịch mà thông báo gợi ý đôi ba lần rằng: "Ðạo hữu, tôi cần y". Khi thông báo gợi ý đôi ba lần, có được y ấy, như thế là tốt; bằng không thành thì phải đứng im lặng trước mặt họ bốn năm lần; nhiều lắm là sáu lần; khi đứng im lặng trước họ bốn, năm, sáu lần mà có được y ấy như thế là tốt, nếu không thành mà cố gắng vượt quá hạn ấy, thành tựu y, phạm ưng xả đối trị.
Nếu vẫn không thành thì từ đâu đưa tiền sắm y, phải tự mình đến đấy hoặc phái người đi, nói rằng:
"Các đạo hữu, tiền sắm y mà các ông đã gởi để dâng vị Tỳ-kheo, tiền đó không thành tựu lợi ích gì cho vị Tỳ-kheo ấy; các ông hãy đòi lại vật sở hữu, đừng bỏ phí vật sở hữu của các ông". Ðây là cách làm đúng trong trường hợp này.” (Trích Tạng Luật, TK Indacanda dịch)
{ Thừa tự Luật trích lục:
Theo lời dạy trên, vị Tỳ-kheo có thể chỉ định vị hộ tự hoặc cận sự nam tin cậy để lo tứ vật dụng hoặc những việc đúng Pháp, đúng Luật cho Tăng.
Tiền bạc ngay từ thời Phật đã phát sinh những vấn đề khiến Đức Thế Tôn không ít lần lên tiếng chấn chỉnh, răn dạy, chế luật đối trị. Mỗi Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nam nữ cư sĩ cần ý thức rõ để giữ tròn nhiệm vụ của mình.
- $ -
GIỚI ƯNG XẢ ĐỐI TRỊ TỔNG QUÁT
Trích PHẨM 2: PHẨM TƠ TẰM
Điều 18: Vị Tỳ-kheo nào nhận lấy vàng và bạc, hoặc sai nhận lấy, hoặc vui thích của để dành cho, phạm ưng xả đối trị.
[106] ... Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực. Nếu có người phụ việc chùa hoặc nam cư sĩ đi đến nơi ấy thì nên nói với người ấy rằng: “Này đạo hữu, hãy nhận biết vật này.” Nếu người ấy nói rằng: “Với vật này, hãy để cho vật gì được mang lại?” Không nên nói rằng: “Hãy mang lại vật này hoặc vật này.”
Nên đề cập đến vật được phép là bơ lỏng, hoặc dầu ăn, hoặc mật ong, hoặc đường mía. Nếu người ấy sau khi dùng (vàng bạc) ấy trao đổi và đem lại vật được phép thì tất cả nên thọ dụng trừ ra vị đã thọ lãnh vàng bạc. Nếu điều ấy có thể đạt được như vậy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không thể đạt được thì nên nói với người ấy rằng: “Này đạo hữu, hãy quăng bỏ vật này.”
Nếu người ấy quăng bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu (người ấy) không quăng bỏ thì nên chỉ định vị quăng bỏ vàng bạc là vị tỳ khưu hội đủ năm điều kiện: là vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích, không thể bị chi phối bởi sự sân hận, không thể bị chi phối bởi sự si mê, không thể bị chi phối bởi sự sợ hãi, là vị biết vật đã được quăng bỏ hoặc chưa được quăng bỏ.
Điều 19: Vị Tỳ-kheo nào dự việc mậu dịch tài sản bằng mọi hình thứcphạm ưng xả đối trị.” (Trích “Luật Nghi Tổng Quát”, TK Giác Giới biên soạn)
{ Thừa tự Luật trích lục:
Giới luật đã rõ ràng cụ thể, vấn đề còn lại ở chỗ ý thức của người thọ trì. Phải thấy phạm tội là phạm tội, nhờ vậy nếu chưa phạm sẽ không phạm, hoặc nếu đã lỡ lầm phải thực tâm sám hối, được vậy sẽ giúp tránh khỏi tội.
Còn dùng lý lẽ này khác để biện minh cho tội lỗi, thì chưa phạm sẽ phạm tội, phạm tội rồi sẽ tiếp tục phạm nữa. Theo kiểu như thế này:
Tội do tâm khởi, do tâm diệt.
Tâm đã tịnh rồi tội liền tiêu
Tội tiêu tâm tịnh , thảy đều không
Đó mới thực là chân sám hối
Pháp và Luật của Đức Thế Tôn biến mất cũng vì những “chân sám hối” kiểu này.
- $ -
Dưới đây là các trích lục trong kinh Nikāya do HT Thích Minh Châu dịch Việt
Đức Phật dạy trong kinh ‘Manicùlam (Châu Báu Trên Đỉnh Đầu) (S.iv,325)
“Này Thôn trưởng, các Sa-môn Thích tử không được phép dùng vàng bạc. Các Sa-môn Thích tử không được giữ vàng bạc. Các Sa-môn Thích tử không được nhận lấy vàng bạc. Các Sa-môn Thích tử đã từ bỏ châu báu và vàng bạc. Họ đã ly khai vàng và bạc.
Ðối với ai được dùng vàng bạc, người ấy cũng được phép dùng năm dục công đức. Ðối với ai được phép dùng năm dục công đức, người ấy hoàn toàn thọ trì phi Sa-môn pháp, phi Thích tử pháp.
Này Thôn trưởng, Ta nói như sau: Cỏ được đi tìm cầu bởi ai cần đến cỏ. Củi được đi tìm cầu bởi ai cần đến củi. Cỗ xe được đi tìm cầu bởi ai cần đến cỗ xe. Người được đi tìm cầu bởi ai cần đến người. Nhưng này Thôn trưởng, không bất cứ một lý do gì Ta nói rằng vàng, bạc được chấp nhận, được tìm cầu”.
{ Thừa tự Pháp trích lục:
Kính lạy Đức Thế Tôn, lời Ngài răn dạy là như thế, nhưng một số nơi đã quên đi đến nỗi sự thọ dụng năm dục công đức được xem là phước báu của người tu. Nhiều nơi đua nhau sắm xe hơi,  mua Iphone, Ipad đời mới mắc tiềnphòng ngủ lắp máy lạnh  v.v… và v.v…
 Khi tìm cầu đủ thứ thì cũng phải có tiền thỏa mãn đủ thứ với bất cứ cách thức nào, bất cứ phương tiện gì. Luật thanh tịnh trở thành sợi dây phiền toái. Đạo giải thoát trở thành điều mơ hồ viễn vông. Lý tưởng thoát khổ biến mất, thay vào đó là cuộc sống nửa đạo nửa đời và khổ đau toàn diện, giống như khúc cây cháy hai đầu đã được Đức Thế Tôn nhắc đến trong đoạn kinh sau đây:
“Vị ấy có tham dục đối với các dục vọng, tham ái cuồng nhiệt, tâm tư sân hận, tư niệm ô nhiễm, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tán loạn, các căn không chế ngự. Ví như, này các Tỷ-kheo, một que củi từ chỗ hỏa táng, cả hai đầu đều cháy, ở giữa lại dính phân, không được dùng làm củi trong làng, không được dùng làm củi trong rừng.
Dùng ví dụ ấy, Ta tả cho các Ông con người ấy, đã mất cả nhà và tài sản, lại không làm viên mãn mục đích của Sa-môn hạnh” (TƯ3, 91= [Ve.7.80.18]).
- $ -
Đức Phật dạy trong kinh Các Uế Nhiễm, Tăng Chi tập 1, Chương 4, V. Phẩm Rohitassa
“… 2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn uế nhiễm này của các Sa-môn, Bà-la-môn, do uế nhiễm này làm ô nhiễm, các Sa-môn, Bà-la-môn không có cháy sáng, không có chói sáng, không có rực sáng. Thế nào là bốn?
Này các Tỷ-kheo, một số Sa-môn, Bà-la-môn uống rượu men, uống rượu nấu, không có từ bỏ rượu men, rượu nấu. Này các Tỷ-kheo, đây là uế nhiễm thứ nhất của Sa-môn, Bà-la-môn, do uế nhiễm này làm ô nhiễm, các Sa-môn, Bà-la-môn, không có cháy sáng... không có rực sáng.
Này các Tỷ-kheo, một số Sa-môn, Bà-la-môn, hưởng thọ dâm dục, không từ bỏ dâm dục. Này các Tỷ-kheo, đây là uế nhiễm thứ hai... không có rực sáng.
Này các Tỷ-kheo, một số Sa-môn, Bà-la-môn chấp nhận vàng và bạc, không từ bỏ nhận lấy vàng và bạc. Này các Tỷ-kheo, đây là uế nhiễm thứ ba... không có rực sáng.
Này các Tỷ-kheo, một số Sa-môn, Bà-la-môn sinh sống với tà mạng, không từ bỏ tà mạng. Này các Tỷ-kheo, đây là uế nhiễm thứ tư của các Sa-môn, Bà-la-môn, do uế nhiễm này làm ô nhiễm, các Sa-môn, Bà-la-môn không có cháy sáng, không có chói sáng, không có rực sáng.
Này các Tỷ-kheo, có bốn uế nhiễm này của các Sa-môn, Bà-la-môn, do những uế nhiễm này làm ô nhiễm, nên các Sa-môn, Bà-la-môn không có cháy sáng, không có chói sáng, không có rực sáng.
{ Thừa tự Pháp trích lục:
Bốn uế nhiễm của các Sa-môn, Bà-la-môn cũng là bốn uế nhiễm của người tu sĩ nói chung. Những lời dạy chí tình của Đấng Ân Sư Từ Phụ cần phải được nhắc đi nhắc lại, ghi nhớ hành trì. Được vậy những người con của Ngài mới thoát khỏi vũng lầy của đau khổ, đọa xứ.
- $ -
Kinh Trùng Phẩn (Tạp, Ðại 2, 346a) (S.ii,228)
1) ... Tại Sāvatthi.
2) -- Khổ lụy, này các Tỷ-kheo, là lợi đắc, cung kính, danh vọng...
3) Ví như, này các Tỷ-kheo, một con trùng phẩn, ăn phân, đầy những phân, tràn ngập những phân, và trước mặt có một đống phân lớn.
4) Nó khinh miệt các con trùng phẩn khác và nói: "Ta ăn phân, đầy những phân, tràn ngập những phân, và trước mặt ta, có đống phân lớn này".
5) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, có Tỷ-kheo bị lợi đắc, cung kính, danh vọng chi phối, tâm bị xâm chiếm, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, vào làng hay thị trấn để khất thực. Vị ấy tại đây đã ăn uống no đủ, lại được mời vào ngày mai, và bình bát của vị ấy được tràn đầy.
6) Vị ấy đi đến ngôi vườn (tịnh xá) và giữa chúng Tỷ-kheo khoe khoangnhư sau: "Ta ăn uống no đủ, lại được mời vào ngày mai, và bình bát này của ta tràn đầy. Ta nhận được các vật dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bịnh. Nhưng các Tỷ-kheo khác công đức ít, ảnh hưởng ít, không nhận được các vật dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh".
7) Vị ấy bị lợi đắc, cung kính, danh vọng chi phối, tâm bị xâm chiếm, khinh miệt các Tỷ-kheo chánh hạnh khác. Này các Tỷ-kheo, như vậy sẽ đem lại bất hạnh, đau khổ lâu dài cho kẻ ngu si ấy.
8) Như vậy, khổ lụy, này các Tỷ-kheo, là lợi đắc, cung kính, danh vọng...
9) Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.”
{ Thừa tự Pháp trích lục:
Kính lạy Đức Thế Tôn, những ai là những người con chân chính của Ngài sẽ phải ghi tâm khắc cốt, học tập những lời dạy thực sự của Ngài.
Phước có hai loại là phước hữu lậu và phước vô lậu. Phước hữu lậu là phước đi kèm với phiền não khổ đau như có danh vọng, tiền bạc, chức tước. Phước vô lậu là phước giải thoát khổ đau hiện tại lẫn tương lai.
Bồ-tát Gotama có tột đỉnh phước hữu lậu, nhưng Ngài từ bỏ tất cả để đạt phước vô lậu giải thoát. Nhưng nhiều người con của Ngài làm ngược lại, họ quay lưng với phước báo giải thoát để bòn mót phước của phiền não ưu sầu.
Đức Phật từ bỏ cung vàng điện ngọc để dấn thân làm vị Khất Sĩ gieo duyên cứu độ chúng sanh, nhưng nhiều con Ngài từ bỏ đạo hạnh thanh bạch, đua nhau xây chùa vàng điện ngọc để thụ hưởng tranh đua.
Do vậy chỉ có kẻ ngu si mới dựa vào lợi đắc, cung kính, danh vọng để khoe khoang, khinh miệt các vị tu hành chân chánh. Kẻ kiêu căng làm vậy chỉ gặt lấy bất hạnh khổ đau lâu dài như những con trùng ăn phẩnmà thôi.
PHẠM THIÊN HÀNH LUẬT

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét